Dự hội thảo có ông Trần Hoàng Tuấn, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Quảng Ngãi; GS.TS Lê Hồng Lý – Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam và hơn 100 nhà nghiên cứu văn hóa trong cả nước.
Phát biểu chào mừng hội thảo, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Trần Hoàng Tuấn nhấn mạnh, Quảng Ngãi là vùng đất có bề dày lịch sử và văn hoá, là nơi phát hiện văn hóa Sa Huỳnh – một trong 3 nền văn hóa tiêu biểu trong tiến trình lịch sử của Việt Nam đã được thế giới công nhận; là nơi hội tụ, cộng cư của đồng bào các dân tộc thiểu số Hrê, Cor, Ca Dong. Nhiều loại hình văn hóa, văn nghệ dân gian các dân tộc miền núi được gìn giữ, bảo tồn và phát huy. Một số loại hình đã trở thành di sản văn hóa phi vật thể quốc gia như: Cồng chiêng dân tộc Cor (Trà Bồng); nghề dệt thổ cẩm Làng Teng, nghệ thuật trình diễn chiêng ba của người Hrê (Ba Tơ).
Trong quá trình hội nhập và phát triển, công tác bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa, văn nghệ truyền thống của cộng đồng các dân tộc thiểu số gặp nhiều thách thức. Tiếng nói, chữ viết, ngữ văn dân gian, nghệ thuật trình diễn dân gian… của đồng bào dân tộc thiểu số có nguy cơ mai một, thất truyền. Đời sống vật chất, mức hưởng thụ văn hóa, tinh thần chưa đồng đều giữa các vùng miền, chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong xây dựng và phát triển đất nước.
Trong quá trình hội nhập và phát triển, bên cạnh những thành tựu, còn nhiều thách thức trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, văn nghệ truyền thống của cộng đồng các dân tộc thiểu số. Tiếng nói, chữ viết, ngữ văn dân gian, nghệ thuật trình diễn dân gian… của người đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi có nguy cơ mai một, thất truyền. Đời sống vật chất, mức hưởng thụ văn hóa, tinh thần chưa đồng đều giữa các vùng, miền, chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong xây dựng và phát triển đất nước trong tình hình mới.
Theo ông Trần Hoàng Tuấn, hội thảo là dịp để tỉnh nhận được nhiều ý kiến đóng góp xây dựng, các giải pháp cả về lý luận và thực tiễn của các nhà khoa học, các chuyên gia, nhà nghiên cứu, từ đó giúp văn hóa, văn nghệ dân gian các dân tộc miền núi tỉnh Quảng Ngãi và khu vực Nam Trung Bộ được bảo tồn và phát triển, trường tồn với lịch sử văn hóa, hòa chung vào dòng chảy văn hóa của 54 dân tộc Việt Nam, góp phần vào công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước.
Phát biểu đề dẫn hội thảo, GS.TS Lê Hồng Lý, Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam cho rằng, để sưu tầm, nghiên cứu, phổ biến và truyền dạy được tất cả những di sản văn hóa dân gian các dân tộc miền núi tỉnh Quảng Ngãi và Nam Trung Bộ trong bối cảnh mới, cần lưu ý các vấn đề: Tiềm năng của văn hóa dân gian; những giá trị đó đang được bảo tồn, phát huy như thế nào tại các địa phương; việc sử dụng văn hóa dân gian để kết nối với dân tộc các nước trên thế giới; vấn đề giáo dục di sản; nguồn nhân lực trong công tác sưu tầm văn hóa dân gian… Các địa phương cần có những giải pháp đồng bộ trong việc nghiên cứu, sưu tầm, phục dựng, bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống. Đồng thời, đẩy mạnh tuyên truyền, quảng bá giới thiệu những nét văn hóa đặc sắc của các dân tộc để tạo sức hút mạnh mẽ với du khách, trở thành sản phẩm du lịch thế mạnh của mỗi địa phương.
GS.TS Lê Hồng Lý cho rằng, thay đổi để phát triển trên cơ sở những truyền thống đã được xây dựng và vun đắp bằng mồ hôi và xương máu của biết bao thế hệ đi trước, chứ không phải để quên lãng, để xóa đi những giá trị truyền thống đó, như vậy sớm muộn gì cũng dẫn đến mất gốc, đến diệt vong. Nói như lời cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc ngày 24/11/2021 “Văn hóa còn thì dân tộc còn, văn hóa mất thì dân tộc mất”. Sự mất ấy là điều tất cả chúng ta cũng như các nhà văn hóa trên toàn thế giới không hề mong muốn. Đó cũng là mục đích mà hội thảo hôm nay về “văn hóa, văn nghệ dân gian các dân tộc miền núi tỉnh Quảng Ngãi và Nam Trung Bộ” hướng đến, và sẽ phải có những hội thảo tiếp theo nữa để chúng ta tiếp tục gìn giữ và bảo vệ những giá trị văn hóa của cha ông.
Hội thảo có hơn 50 tham luận của các nhà nghiên cứu văn hóa trong cả nước, tập trung các nhóm: Bảo tồn di sản văn hóa- 16 tham luận; văn học dân gian – 7 tham luận; tín ngưỡng – lễ hội dân gian – 6 tham luận; âm nhạc, du lịch, ẩm thực- 9 tham luận vvaf những vấn đề khác 13 tham luận.
Các đại biểu chỉ ra sự phong phú, đặc sắc của vốn di sản văn hóa, văn nghệ dân gian, từ đó các địa phương cần có những giải pháp đồng bộ trong việc nghiên cứu, sưu tầm, phục dựng, bảo tồn, phát huy; đồng thời đẩy mạnh tuyên truyền, quảng bá giới thiệu những nét văn hóa đặc sắc của các dân tộc, tạo sức hút mạnh mẽ với du khách, trở thành sản phẩm du lịch thế mạnh của mỗi địa phương…
Nghệ nhân Ưu tú Yang Danh, Chi hội Văn nghệ dân gian tỉnh Bình Định chia sẻ, để khắc phục những tồn tại đã nêu, cần tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, truyền dạy, tìm ra những cán bộ làm công tác văn hóa giỏi và có những chế độ, chính sách phù hợp cho người làm văn hóa.
Tại hội thảo, các nhà nghiên cứu văn hóa ở Quảng Ngãi cũng đã có những tham luận về hướng bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống các dân tộc trên địa bàn tỉnh; bảo tồn và phát huy nghệ thuật trình diễn chiêng ba của người Hrê; truyện dân gian Cor ở Quảng Ngãi từ góc nhìn địa văn hoá. Mối tương quan văn hoá của người Sa Huỳnh cổ và dân tộc Hrê ở Quảng Ngãi;về các tín ngưỡng, lễ hội dân gian các dân tộc miền núi Quảng Ngãi như: Lễ cúng cầu mưa, lễ ăn trâu…
Việc tổ chức khôi phục, bảo tồn và phát triển bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc thiểu số rất ít người nhằm triển khai thực hiện hiệu quả Dự án 6 thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2025 và các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác bảo tồn, phát huy văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch; phát huy hiệu quả nguồn lực đầu tư của nhà nước, xã hội và cộng đồng vào công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của cộng đồng dân tộc thiểu số rất ít người; cải thiện mức hưởng thụ văn hóa ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Bên cạnh đó, việc tổ chức khôi phục, bảo tồn và phát triển bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc thiểu số rất ít người phù hợp với điều kiện kinh tế và phong tục, tập quán cộng đồng dân tộc thiểu số; lựa chọn hỗ trợ bảo tồn, phát huy các loại hình văn hóa tiêu biểu của dân tộc thiểu số rất ít người, góp phần thúc đẩy phát triển du lịch tại địa phương.
Các nội dung thực hiện bao gồm: Tổ chức khảo sát, điều tra, thống kê, thu thập thông tin để bảo tồn, phát huy các loại hình văn hóa truyền thống của dân tộc Lự trên địa bàn tỉnh Lai Châu; tổ chức tập huấn về bảo tồn, phát huy các loại hình văn hóa truyền thống dân tộc Lự gắn với phát triển du lịch; tổ chức truyền dạy, biểu diễn, tái hiện các loại hình văn hóa truyền thống dân tộc Lự; tuyên truyền, quảng bá giới thiệu về hoạt động bảo tồn, phát huy văn hóa truyền thống dân tộc Lự.
Cùng với chúng tôi trong những giờ lên lớp nghe các thày cô giảng bài, kho tàng kiến văn về văn hóa văn nghệ dân tộc và nhân loại đã mở ra cho anh Trọng và chúng tôi một chân trời rộng lớn, bao la của những giá trị Chân, Thiện, Mỹ, làm cho đời sống tinh thần của con người thêm phong phú, hài hòa, cao đẹp.
Những năm tháng tuổi trẻ ấy quả là cần thiết, giúp anh tích lũy một khối lượng tri thức thấm nhuần những quan điểm mỹ học của chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt Nam cùng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa, văn nghệ. Và rồi, ra trường tiếp tục rèn luyện và tự học, lần lượt trên các cương vị công tác: nhà báo Đảng, nhà tư tưởng, nhà quản lý, lãnh đạo giữ những cương vị cao: Ủy viên thường trực Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội, Tổng Bí thư của Đảng, Chủ tịch nước, đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã có dịp thay mặt Đảng và Nhà nước phát biểu những ý kiến quan trọng giúp vào sự quán triệt và phát triển đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng; tư tưởng văn hóa, văn nghệ Hồ Chí Minh được tập hợp vào cuốn sách Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật xuất bản tháng 6/2024. Trọng tâm cuốn sách giới thiệu 92 bài viết, bài phát biểu, bài nói, thư, bản lược ghi, bài trả lời phỏng vấn… từ năm 1968 đến nay của đồng chí Nguyễn Phú Trọng liên quan đến lĩnh vực văn hóa, văn nghệ.
Qua những bài nói, bài viết, đồng chí đã thể hiện sự am hiểu thấu đáo và tầm nhìn chiến lược nhạy bén về những vấn đề then chốt nhất của sự lãnh đạo và phát triển văn hóa, văn nghệ cùng những gợi ý thiết thực để thực thi có hiệu quả xây đắp nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam hằng mong mỏi.
Tại Lễ kỷ niệm 45 năm ngày thành lập Viện Văn học (12/1999); 70 năm Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam (8/2018); Hội nghị văn hóa toàn quốc (11/2021); đồng chí đã trình bày tổng kết và nhấn mạnh, phát triển các tư tưởng, quan điểm thuộc đường lối văn hóa, văn nghệ đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ở các khía cạnh sau:
– Văn hóa, văn nghệ là một mặt trận, một vũ khí sắc bén của cách mạng vô sản, phải đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội. Vì văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, sức mạnh nội sinh, động lực quan trọng để phát triển đất nước.
– Đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là: dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Đó là sự tiếp tục và phát triển 3 nguyên tắc xây dựng văn hóa mới: dân tộc, khoa học, đại chúng mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra trong Đề cương về văn hóa Việt Nam từ năm 1943, thực hiện nhất quán đến nay.
– Văn hóa là hồn cốt của dân tộc, nói lên bản sắc dân tộc. Văn hóa còn thì dân tộc còn.
– Trọng tâm xây dựng và phát triển văn hóa là xây dựng con người có nhân cách, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh.
– Các nhà văn hóa, đội ngũ trí thức văn nghệ sĩ là lực lượng chủ lực những chủ thể sáng tạo hiếm có. Tự do sáng tạo đi đôi với nêu cao trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân của văn nghệ sĩ tâm huyết với tiền đồ đất nước.
– Văn nghệ sĩ ngày nay phải cố gắng vượt qua mọi thử thách, khó khăn để khởi sắc, chấn hưng, xây dựng thành công nền văn hóa Việt Nam mới làm vẻ vang nòi giống, từng bước vững chắc hội nhập với văn minh nhân loại.
– Tôn trọng đặc thù của tác phẩm văn nghệ và đội ngũ văn nghệ sĩ trong đời sống và lao động sáng tạo thăng hoa, bền bỉ.
– Văn nghệ phải chiếu sáng cuộc sống chứ không chỉ là nơi cuộc sống hiện hình. Đúng như Bác Hồ nói: Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi.
– Văn nghệ bồi dưỡng, nâng cao tầm vóc con người, chứ không thu hẹp chỉ là nơi giãi bày tâm trạng của cá nhân hoặc hạ thấp con người. Văn hóa phải “đi sâu vào tâm lý quốc dân” như Bác Hồ đã chỉ rõ.
– Văn nghệ sĩ phải đồng hành cùng dân tộc, trái tim đập cùng một nhịp với trái tim của toàn dân tộc, lăn lộn với thực tiễn của đời sống quần chúng, trau dồi trình độ nghề nghiệp để trở thành những nghệ sĩ lớn, có tầm vóc, sáng tạo những tác phẩm hay về tư tưởng và nghệ thuật, có giá trị lâu dài, để đời.
Có thể thấy, với những ý kiến thể hiện tư tưởng chiến lược, chỉ đạo và bằng các hoạt động không mệt mỏi của mình, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã là người học trò (thuộc thế hệ sau) xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng chí là người phát động và là thủ lĩnh dấy lên cao trào chấn hưng nền văn hóa, văn nghệ Việt Nam, đáp ứng nhu cầu mới của thời đại, mong mỏi của nhân dân và bạn bè quốc tế.
Đồng chí Nguyễn Phú Trọng không chỉ là nhà chính trị kiệt xuất mà còn xứng đáng là nhà văn hóa uyên bác, một Hiền Nhân thuộc vào hàng “nguyên khí quốc gia”.
Tham dự buổi Lễ có đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương; đồng chí Đinh Thị Mai, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương; PGS. TS, Nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân, Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam; Nhà thơ Hữu Thỉnh, nguyên Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, nguyên Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam; TS. Bùi Thế Đức, Phó Chủ tịch chuyên trách Hội đồng lý luận phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương; các đại biểu là đại diện các Bộ, ban, ngành Trung ương và Hà Nội; cùng các đơn vị, đối tác, các văn nghệ sĩ, cán bộ cơ quan Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, các Hội Văn học nghệ thuật chuyên ngành Trung ương, các Hội Văn học nghệ thuật tỉnh, thành phố.
Địa chỉ của lịch sử, văn hóa, kiến trúc
Phát biểu tại Lễ khánh thành, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam Đỗ Hồng Quân cho biết, ngôi nhà 51 Trần Hưng Đạo là một công trình kiến trúc đặc biệt, đến nay đã tồn tại ngót nghét 100 năm.
Ngôi nhà được xây dựng từ cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19, với chủ nhân đầu tiên là thị trưởng Hà Nội (người Pháp). Ngôi nhà cũng là nơi ở của cựu vua Bảo Đại, sau khi thoái vị, ông theo lời mời của Chủ tịch Hồ Chí Minh ra hợp tác, làm việc với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sau ngày giải phóng Thủ đô, thành phố Hà Nội đã bàn giao ngôi nhà cho các tổ chức văn nghệ sĩ để làm nơi làm việc và sáng tác.
Đối với các thế hệ văn nghệ sĩ Việt Nam, trụ sở số 51 trên phố Trần Hưng Đạo từ lâu đã là một địa chỉ thân thiết, nơi diễn ra nhiều sự kiện quan trọng của văn học nghệ thuật nước nhà.
Trong những năm chống Mỹ cứu nước, đời sống văn nghệ sĩ cùng nhân dân cả nước gặp muôn vàn khó khăn, vất vả. Khuôn viên của số nhà 51 khi đó ngoài văn phòng làm việc của các Hội, đây còn là nơi ở, sinh hoạt của nhiều gia đình văn nghệ sĩ: nhà thơ Chế Lan Viên, nhà thơ Bảo Định Giang, nhà thơ Xuân Tửu, nhà văn Trần Vân…
Đặc biệt là tại nơi đây, Bác Hồ và nhiều vị Lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã đến thăm và làm việc với văn nghệ sĩ.
PGS. TS, Nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân khẳng định: “Nếu như Hà Nội là trái tim của cả nước thì ngôi nhà 51 Trần Hưng Đạo có thể ví như trái tim của đại gia đình văn nghệ sĩ nước nhà. Đây là ngôi đền thiêng, một địa chỉ lịch sử, văn hóa, kiến trúc của thủ đô Hà Nội, cũng là nơi Bác Hồ và các vị lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước đã đến thăm và làm việc với văn nghệ sĩ”.
Dự án lớn chưa từng có của Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam
Qua năm tháng, trụ sở của Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam đã xuống cấp nghiêm trọng, cần được trùng tu, cải tạo và xây dựng mới.
Dự án đầu tư xây dựng trụ sở Liên hiệp Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam tại 51 phố Trần Hưng Đạo – Hà Nội đã nhận được sự quan tâm đặc biệt của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các Bộ, ngành và thành phố Hà Nội. Đặc biệt là sự quan tâm sâu sắc của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đồng chí đã quan tâm chỉ đạo việc tu bổ, cải tạo và xây dựng mới trụ sở 51 từ năm 2013 khi đồng chí đến thăm và làm việc với Liên hiệp. Đồng thời nhận được sự chỉ đạo sát sao của các đồng chí là Thủ tướng Chính phủ 3 thời kỳ: đồng chí Nguyễn Tấn Dũng, đồng chí Nguyễn Xuân Phúc, đồng chí Phạm Minh Chính.
Công trình cũng là thành quả nỗ lực, cố gắng và tâm huyết của lãnh đạo Liên hiệp các hội Văn học nghệ thuật Việt Nam qua các thời kỳ. Trong đó phải nhắc tới công lao to lớn của vị Chủ tịch Liên hiệp hai nhiệm kỳ 8 và 9 – nhà thơ Hữu Thỉnh, người có công đầu và là tổng công trình sư từ ý tưởng đến những bản vẽ thiết kế đầu tiên. Cùng với ông là tập thể lãnh đạo đảng đoàn, đoàn chủ tịch có trách nhiệm cao, tinh thần đoàn kết, nhất trí trong công việc để đi tới những quyết định thuận lợi nhất cho công trình.
Xuyên suốt quá trình từ năm 2014 đến nay, trải qua hai nhiệm kỳ 8 và 9 làm các thủ tục chuẩn bị đầu tư dự án, đến nhiệm kỳ thứ 10 dự án xây dựng trụ sở Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam đã hoàn thành nhiệm vụ xây dựng trụ sở 51 Trần Hưng Đạo – mái nhà chung của giới văn học nghệ thuật nước nhà, đáp ứng nguyện vọng cháy bỏng của giới văn nghệ sĩ cả nước.
Chia sẻ với phóng viên Thời báo Văn học nghệ thuật, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam Đỗ Hồng Quân cho biết: “Chúng tôi nhận thức rằng, quyết định xây dựng công trình là sự việc vô cùng hệ trọng, đây là dự án lớn chưa từng có kể từ ngày thành lập Liên hiệp. Việc cải tạo và xây dựng mới trụ sở là mong muốn thiết tha của nhiều thế hệ văn nghệ sĩ mà nay trao gửi trách nhiệm, niềm tin và hy vọng cho lãnh đạo Liên hiệp nhiệm kỳ 10”.
Chủ trương xây dựng công trình là tôn trọng lịch sử kiến trúc, kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, hòa chung trong không gian xanh của khu phố cổ lâu đời liên kết với các công trình liền kề tạo thành một chuỗi liên hoàn các công trình kiến trúc đẹp cho quận Hoàn Kiếm và Thủ đô Hà Nội.
Quá trình thực hiện các bước của Dự án xây dựng Trụ sở Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn về thủ tục giấy tờ, đáp ứng những quy định nghiêm ngặt về kỹ thuật, kiến trúc, mỹ thuật,…
Do công trình nằm trong phố cổ, cạnh Đại Sứ quán Cộng Hòa Pháp, với nhiều công trình, nhà dân xung quanh có kết cấu được xây dựng lâu ngày đã xuống cấp. Đồng thời, phải tháo dỡ các công trình cũ có chiều cao từ 4 đến 7 tầng. Do vậy, các biện pháp thi công phải hết sức thận trọng, không gây tiếng ồn làm ảnh hưởng các hộ liền kề, phải đảm bảo về an toàn tuyệt đối cho người và phương tiện…, thời gian thi công về đêm bị hạn chế.
Mặc dù có nhiều vướng mắc trong thời gian thi công nhưng công trình đến nay đã giữ tuyệt đối về mặt an toàn cho công nhân lao động trên công trình và các hộ liền kề, có chất lượng đạt yêu cầu như thiết kế đã được thẩm định.
Công trình được Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam đánh giá là: “về đích đúng thời hạn, đảm bảo chất lượng tốt, an toàn tuyệt đối, hiệu quả lâu dài, thắng lợi giòn giã”.
Mái nhà chung của các thế hệ văn nghệ sĩ
Sự kiện khánh thành trụ sở mới như tiếp thêm năng lượng, niềm cảm hứng, niềm tin cho văn nghệ sĩ trên chặng đường mới với nhiều thuận lợi hơn để cố gắng phấn đấu hoàn thành chức năng, nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước giao phó với mục tiêu cao cả là sáng tạo ra nhiều tác phẩm, công trình hay, có giá trị về tư tưởng và nghệ thuật phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc.
Công trình mới không chỉ là nơi làm việc cho Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam và 5 Hội Văn học nghệ thuật chuyên ngành Trung ương, mà đây còn là địa chỉ đáng tin cậy, là ngôi nhà chung ấm áp tình người luôn mở rộng cánh cửa để chào đón các thành viên của Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam mỗi khi về Thủ đô có thể ghé thăm, gặp gỡ bạn bè, đồng nghiệp.
Đây sẽ là nơi diễn ra các hoạt động nghiệp vụ, thực hiện kế hoạch công tác hàng năm của Đảng đoàn, Đảng ủy, Đoàn Chủ tịch, Thường trực Đoàn Chủ tịch Liên hiệp và Ban chấp hành các Hội Văn học nghệ thuật.
Cùng với thời gian, trụ sở 51 Trần Hưng Đạo đã ghi dấu ấn sâu đậm của các thế hệ văn nghệ sĩ Việt Nam, tại đây họ đã sống, đã làm việc và sáng tạo ra những tác phẩm bất hủ để lại cho muôn đời sau. Với mỗi văn nghệ sĩ, ngôi nhà 51 từ lâu đã trở thành “ngôi nhà linh thiêng”, nghĩa tình, “thánh địa của sự sáng tạo”, là trái tim của giới văn học nghệ thuật nước nhà.
Buổi làm việc diễn ra dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương; đồng chí Lê Thành Long, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính Phủ; đồng chí Nguyễn Văn Hùng, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; đồng chí Đinh Thị Mai, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương; PGS. TS, Nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân, Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam.
Cần chú ý đúng mức tính chất đặc thù của văn học nghệ thuật
Trong báo cáo kết quả công tác của Liên hiệp trong thời gian qua và phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm thời gian tới, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam Đỗ Hồng Quân cho biết, từ sau Đại hội đến nay, Đảng đoàn, Đoàn Chủ tịch, Liên hiệp Hội, các tổ chức thành viên ở Trung ương và các tỉnh, thành phố đã triển khai tổ chức thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về văn hóa, văn học nghệ thuật; hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao.
“Văn học nghệ thuật đã góp phần quan trọng vào nhiệm vụ xây dựng môi trường văn hóa, xây dựng con người, đấu tranh với các biểu hiện sai trái, tạo lập bầu không khí lành mạnh trong xã hội. Đội ngũ văn nghệ sĩ đoàn kết, nhất trí về chính trị, tư tưởng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, thiết tha với văn hoá dân tộc, khao khát đổi mới để cống hiến có hiệu quả”, PGS. TS, Nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân nhấn mạnh.
Về phương hướng chung, Liên hiệp và các hội tiếp tục thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về văn hoá, văn học nghệ thuật; tổ chức triển khai thực hiện tốt Kết luận 84-KL/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị, Chỉ thị số 36-CT/TW của Ban Bí thư về đại hội các hội văn học, nghệ thuật và Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam nhiệm kỳ 2025-2030.
Xây dựng Liên hiệp và các hội phát triển vững mạnh; tập trung đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động; tập hợp, đoàn kết, xây dựng đội ngũ văn nghệ sĩ phát triển cả về số lượng và chất lượng; quan tâm phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, coi trọng tính đặc thù của sáng tạo nghệ thuật. Phấn đấu có nhiều tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật.
Phát huy vai trò của tổ chức chính trị-xã hội- nghề nghiệp được Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ; chức năng phản biện xã hội, tư vấn cho Đảng, Nhà nước về những vấn đề quan trọng liên quan đến sự nghiệp phát triển văn học nghệ thuật; thực hiện tốt vai trò cầu nối giữa đội ngũ văn nghệ sĩ với Đảng và Nhà nước.
Để triển khai có hiệu quả Kết luận 84-KL/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị, buổi làm việc đã ghi nhận nhiều ý kiến tâm huyết, các đề xuất, kiến nghị của các đồng chí là lãnh đạo Liên hiệp và các hội.
Thay mặt Đảng đoàn Liên hiệp, PGS. TS, Nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân đề nghị các cấp, các ngành trong thời gian tới quan tâm hơn nữa trong công tác thể chế hóa thành cơ chế chính sách cụ thể. Đồng thời, xây dựng, ban hành chủ trương, chính sách, coi trọng công tác tổng kết thực tiễn; chú ý đúng mức đến tính chất đặc thù của văn học nghệ thuật; khuyến khích những ý tưởng mới, những cách làm hay, sáng tạo.
Trong đó, Liên hiệp có một số kiến nghị, đề xuất cụ thể như: đề nghị Quốc hội cho chủ trương xây dựng Luật Văn học nghệ thuật; nghiên cứu, sửa đổi một số nội dung Kết luận số 35-KL/TW của Bộ Chính trị về danh mục chức danh, chức vụ lãnh đạo và tương đương của hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở; đề nghị Chính phủ sớm ban hành Nghị định mới thay thế Nghị định 45/2010/NĐ-CP của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội; đề nghị tiếp tục duy trì chính sách hỗ trợ sáng tạo cho văn nghệ sỹ, mỗi năm có tăng dần theo sự tăng trưởng của kinh tế quốc dân, có cơ chế đặc thù, giao nhiệm vụ thay vì đặt hàng, có chương trình hỗ trợ sáng tạo dài hơi;…
Nêu ý kiến tại buổi làm việc, NSNA Trần Thị Thu Đông, Đại biểu Quốc hội khóa XV, Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, Chủ tịch Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam cho biết, hiện nay, trong 30 tổ chức hội quần chúng do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ ở Trung ương thì chỉ có 10 tổ chức có Đảng đoàn. Đây là sự bất cập trong việc xác định vị trí, vai trò, tính chất hoạt động các Hội dẫn đến căn cứ xác định chế độ, chính sách không hợp lý, tạo sự so bì, thắc mắc; cơ chế lãnh đạo của Đảng không đồng bộ, rõ ràng đối với các Hội.
“Trong thời gian tới, để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các Hội quần chúng do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ ở Trung ương, đề nghị Bộ Chính trị, Ban Bí thư cho rà soát, đánh giá kỹ về yêu cầu để chấn chỉnh, sắp xếp lại hợp lý hơn theo hướng: Tất cả các Hội có tính chất chính trị – xã hội – nghề nghiệp (được Đảng và Nhà nước giao nhiệm vụ) đều phải thành lập đảng đoàn. Vì hiện nay, quy định về tổ chức Đảng đoàn của các hội văn học nghệ thuật trong cả nước chưa thống nhất. Ở địa phương, các Hội văn học nghệ thuật tỉnh, thành phố đều thành lập Đảng đoàn nhưng ở trung ương, ngoài Liên hiệp thì chỉ có Hội Nhà văn Việt Nam có Đảng đoàn, 9 hội văn học nghệ thuật chuyên ngành trung ương còn lại thì không, trong khi tất cả các hội này đều có địa vị pháp lý như nhau, đều là tổ chức thành viên của Liên hiệp”, NSNA Trần Thị Thu Đông nêu.
KTS Phan Đăng Sơn, Chủ tịch Hội Kiến trúc sư Việt Nam cũng cho rằng, việc thành lập Đảng đoàn tại các Hội Văn học nghệ thuật chuyên ngành trung ương sẽ tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và đẩy mạnh công tác văn học nghệ thuật ở các hội. Từ đó, các nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước giao sẽ được thực hiện có hiệu quả hơn và đồng thời, các Đảng đoàn này sẽ trở thành cầu nối giữa Đảng và các văn nghệ sĩ.
NSND Trịnh Thị Thuý Mùi, Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, Chủ tịch Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam đề nghị chuyển giao lại các Liên hoan nghệ thuật chuyên ngành từ Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cho các Hội Văn học nghệ thuật chuyên ngành trung ương để phù hợp với tính pháp lý của các hoạt động này. Theo bà, các hội chuyên ngành là nơi có đủ trình độ để thẩm định chất lượng nghệ thuật và việc chuyển giao này cũng giúp các cơ quan tham mưu của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có thể chuyên tâm hơn trong công tác quản lý nhà nước.
Các ý kiến tại buổi làm việc cũng bày tỏ sự quan tâm lớn đến vấn đề nguồn nhân lực cho văn học nghệ thuật. Trong đó, có nhiều đề nghị Đảng, Nhà nước quan tâm hơn nữa về công tác đầu tư nguồn nhân lực cho đội ngũ sáng tác văn học nghệ thuật bằng cơ chế đặc thù, để tiếp nối thế hệ tài năng cho văn học nghệ thuật nhằm khôi phục dần sự khủng hoảng về đội ngũ sáng tạo của văn học nghệ thuật. Đặc biệt là công tác lý luận phê bình – là công tác định hướng thẩm mỹ cho hoạt động văn học nghệ thuật, cho độc giả cho người thưởng thức nghệ thuật. Theo thực tế hiện nay, các chuyên gia “có nghề” đã cao tuổi và trong nhiều năm qua, các trường nghệ thuật không tuyển được sinh viên theo học nghề này.
Tiếp tục phát triển nền văn học nghệ thuật nước nhà trong thời kỳ đổi mới
Tại buổi làm việc, đồng chí Nguyễn Văn Hùng, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cho rằng, trong thời gian qua, nhất là sau thời gian tập trung thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam và Kết luận của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021, sự phối hợp giữa Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam và các bên liên quan đã được tăng cường nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp trong phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; đưa văn hóa ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội.Theo đồng chí, chính vì sự nỗ lực chung của các ngành, các cấp, trong đó có vai trò của Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, văn học nghệ thuật tiếp tục được khẳng định là lĩnh vực quan trọng, là bộ phận cấu thành và đặc biệt tinh tế của văn hóa, đưa văn hóa, văn học nghệ thuật đáp ứng được những nhu cầu thiết yếu, khát vọng hướng đến các giá trị chân, thiện, mỹ.
Phó Thủ tướng Lê Thành Long ghi nhận những kết quả đã đạt được và chia sẻ những khó khăn, thách thức mà các văn nghệ sĩ đã gặp phải trong thời gian qua. Thông qua các kiến nghị của Liên hiệp và các hội, đồng chí Lê Thành Long đề nghị công tác văn học nghệ thuật trong thời gian tới tiếp tục bám sát Nghị quyết số 23-NQ/TW và Kết luận số 84-KL/TW của Bộ Chính trị.
Tiếp tục khẳng định vị thế, vai trò của văn học nghệ thuật trong đời sống xã hội, Phó Thủ tướng Lê Thành Long nhấn mạnh, cần phải tăng cường đầu tư cho những chương trình, dự án trọng điểm, có cơ chế hỗ trợ cho các hoạt động văn học nghệ thuật; yêu cầu sự cố gắng hơn nữa của văn nghệ sĩ để có được những tác phẩm có chất lượng để đời; tăng cường quản lý nhà nước cùng với phát triển công nghiệp văn hóa trong đó có vấn đề xã hội hóa;…
Phát biểu kết luận tại buổi làm việc, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa nêu rõ, trong suốt quá trình cách mạng, nhất là những năm đổi mới, lĩnh vực văn học nghệ thuật luôn có đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp chung của đất nước, sự nghiệp xây dựng nền văn hóa con người, đặc biệt là phát triển nền văn học nghệ thuật nước nhà trong thời kỳ đổi mới.
Đặc biệt, để tiếp tục khẳng định vai trò của văn hóa nói chung và văn học nghệ thuật nói riêng, vừa qua Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã có Kết luận số 84-KL/TW về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị “về tiếp tục xây dựng và phát triển nền văn học nghệ thuật trong thời kỳ mới”. Ban Bí thư đã có những nội dung chỉ đạo về đại hội các hội văn học, nghệ thuật và Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam nhiệm kỳ 2025-2030. Cùng với đó, là thực hiện Kế hoạch của Ban Tuyên giáo Trung ương về việc “tổ chức các hoạt động tổng kết 50 năm nền văn học, nghệ thuật Việt Nam sau ngày đất nước thống nhất (30/4/1975 – 30/4/2025)”.
Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương cho biết, Đảng và Nhà nước tiếp tục khẳng định văn học nghệ thuật là một bộ phận đặc biệt tinh tế của văn hóa và tác động trực tiếp đến nhận thức tư tưởng tình cảm, thẩm mỹ của đông đảo tầng lớp nhân dân. Đây cũng là nội dung tạo ra nền tảng tinh thần của xã hội, tạo ra sức mạnh nội sinh để đất nước tiếp tục phát triển, thể hiện khát vọng chân thiện mỹ của con người; là nguồn lực, động lực to lớn mà Đảng ta xác định văn hóa và con người là động lực để thúc đẩy sự phát triển của đất nước thời gian tới.
Trong thời gian tới, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa đề nghị, các bộ, ban ngành tiếp tục hoàn thiện cơ chế, thông thoáng chính sách, có sự phối hợp đồng bộ để giải quyết những điểm nghẽn trong công tác văn học nghệ thuật.
Ai cũng nghĩ một ngày buồn như hôm nay sẽ đến, nhưng chẳng muốn rằng nó sẽ đến hôm nay.
Sự ra đi của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tạo nên sự hụt hẫng, mất mát to lớn với toàn Đảng, toàn dân, trong đó có đông đảo văn nghệ sĩ và người làm công tác văn hóa… Sinh thời, Tổng Bí thư từng là một nhà báo. Nhìn hình ảnh đồng chí Hà Xuân Trường trao tặng phóng viên Tạp chí Cộng sản Nguyễn Phú Trọng khi còn rất trẻ đã cho thấy sự cống hiến và trưởng thành của một người làm báo chân chính.
Tổng Bí thư là một nhà nghiên cứu khoa học, lý luận đúng nghĩa với rất nhiều tác phẩm đã in thành sách để lại cho đời sau. Những trang viết đầy ắp kinh nghiệm lý luận và thực tiễn của ông thể hiện sự cẩn trọng, cân nhắc qua từng ngôn từ – mà tác giả – người trực tiếp “cày ải” trên cánh đồng chữ nghĩa đã dành cho nghiên cứu lý luận rất nhiều thời gian, công sức. Thực tế, để viết và hoàn thành một cuốn sách, đặc biệt trong lĩnh vực chính trị, xã hội, không chỉ đòi hỏi tâm huyết của tác giả mà còn cần có sự thông tuệ, khả năng tu từ, nền tảng kiến thức khoa học mang tầm quốc tế.
Để ý thấy rõ, những năm tháng cuối đời, Tổng Bí thư, GS.TS Nguyễn Phú Trọng dường như quan tâm nhiều hơn, làm việc nhiều hơn với công tác lý luận. Có thể thấy, trong con người ông là sự kết tinh đầy đủ phẩm cách của nhà lãnh đạo chính trị, song vẫn đầy ắp tính nhân văn, chan chứa tình người. Trên diễn đàn nhiều cuộc họp Trung ương, bên cạnh những lập luận mang tính chỉ đạo, Tổng Bí thư còn nêu dẫn chứng thơ văn phù hợp với từng ngữ cảnh. Trái tim người chiến sĩ cộng sản luôn phải rèn thành gang, thành thép để vững vàng, kiên trung, nhưng vẫn dành chỗ xứng đáng cho tình yêu đời, yêu người, yêu thơ, yêu văn học nghệ thuật.
Chỉ đạo tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021, Tổng Bí thư nhấn mạnh: “Từ ngày 24.11.1946, hôm nay mới lại có Hội nghị toàn quốc về Văn hóa với quy mô lớn thế này”. Với tầm nhìn của nhà lãnh đạo hiểu biết ngọn ngành, thấu đáo, ông vừa động viên những người làm văn hóa, văn học nghệ thuật nhưng cũng thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, tồn tại, bất cập, yếu kém trên lĩnh vực văn hóa.
Ngày 25.7.2023, nhân kỷ niệm 75 năm ngày thành lập Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng đã chỉ rõ: “Một số văn nghệ sĩ phai nhạt mục tiêu, lý tưởng cách mạng, xem nhẹ nghĩa vụ công dân, trách nghiệm xã hội, vì thế tác phẩm của những cá nhân này xa rời thực tiễn đời sống của đất nước, đời sống nhân dân dẫn tới phát ngôn, xuất bản sách báo, sử dụng mạng xã hội có nội dung thiếu xây dựng, nặng về cảm tính, thậm chí là cực đoan”; và “thành tựu văn học nghệ thuật đạt được trong những năm qua có những mặt còn chưa tương xứng với sự đổi mới của Đảng và đất nước; chất lượng chưa hài hòa với số lượng, chưa có nhiều tác phẩm tạo được sự thu hút và quan tâm rộng lớn của công chúng và có sức lan tỏa làm rung động lòng người, còn ít tác phẩm đỉnh cao, những văn nghệ sĩ nổi tiếng…”.
Tiếc thương một nhà lãnh đạo như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, hôm nay, trong niềm xúc động nghẹn ngào, tôi đã thấy rất nhiều người dân, rất nhiều người làm công tác văn hóa nhiều văn nghệ sĩ, nhà báo, trong đó có nhiều nghệ sĩ điện ảnh – truyền hình đã khóc.
Tiếp thu những lời nhắn nhủ, dặn dò của Tổng Bí thư, nỗ lực làm tròn nhiệm vụ
Cách đây hơn 10 năm, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đến thăm khu Di sản Huế. Trò chuyện cùng những người làm công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản, Tổng Bí thư căn dặn anh chị em cần phải cố gắng học tập, tìm tòi những giá trị văn hóa nghệ thuật của người xưa, có như vậy mới bảo tồn và phát huy được những giá trị di sản mà cha ông chúng ta để lại.
Nhà hát Nghệ thuật Truyền thống Cung đình Huế (thuộc Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế) là nơi lưu giữ, bảo tồn và phát huy giá trị các di sản phi vật thể như: Nhã nhạc cung đình, tuồng cung đình và múa hát cung đình. Các loại hình nghệ thuật diễn xướng đã từng tồn tại hàng trăm năm dưới triều Nguyễn. Khi được Tổng Bí thư động viên, ghi nhận những nỗ lực, chúng tôi đã rất xúc động và luôn tự nhủ phải cùng cố gắng trau dồi đạo đức, phát huy khả năng, góp sức mình vào công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể mà Thừa Thiên Huế đang nắm giữ.
Sự quan tâm của Tổng Bí thư là động lực tiếp thêm sức mạnh cho các văn nghệ sĩ tiếp tục cống hiến, góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Bản thân tôi cũng là một người đang trực tiếp gìn giữ những giá trị di sản văn hóa phi vật thể có giá trị của đất nước, tôi luôn động viên các thế hệ nghệ sĩ trẻ tiếp thu những lời nhắn nhủ, dặn dò của Tổng Bí thư. Tập thể nhà hát luôn đoàn kết, nỗ lực hết mình làm tròn nhiệm vụ, lan tỏa bản sắc văn hóa Huế đến cộng đồng du khách trong nước và quốc tế.
Đặt văn hóa ngang tầm với chính trị, kinh tế, xã hội
Văn hóa lúc nào cũng là vấn đề quan trọng của đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”, trong thời điểm hội nhập với quốc tế hiện nay, văn hóa càng quan trọng hơn bao giờ hết. “Văn hóa còn thì dân tộc còn”, văn hóa và dân tộc luôn phải song hành cùng nhau, cho nên, Tổng Bí thư Trường Chinh đưa ra Đề cương về Văn hóa Việt Nam với nhiều nội dung quan trọng, nhưng yếu tố dân tộc là trên hết, sau mới đến đại chúng và khoa học… Là học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã kế thừa được những quan điểm đó và tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021, Tổng Bí thư đã nhấn mạnh giá trị quan trọng của văn hóa trong thời đại ngày nay.
Trước đó, Nghị quyết 33 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước cũng đã nhấn mạnh: Văn hóa phải được đặt ngang tầm với chính trị, kinh tế và xã hội. Điều này cho thấy, trong mỗi Nghị quyết của Đảng, tầm quan trọng của văn hóa đều được nhắc lại và nhấn mạnh, phát triển một cách cao hơn.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng không chỉ quan tâm đến văn hóa, mà còn quan tâm đến rất nhiều lĩnh vực, nhưng riêng đối với văn hóa, văn học – nghệ thuật thì được ông nhấn mạnh và đặt ở vị trí xứng tầm. Đối với Tổng Bí thư, có phát triển văn hóa, con người Việt Nam thì chúng ta mới giữ được vị thế đất nước, vị thế dân tộc… Mong rằng, những nền tảng mà Tổng Bí thư đã dày công đặt để, sẽ được thực thi ngày càng hiệu quả, mang lại những giá trị to lớn cho nền văn hóa nước nhà.
Sự quan tâm của Tổng Bí thư đối với văn hóa đã tiếp thêm sức mạnh cho đội ngũ những người sáng tạo
Khi tin Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từ trần vừa công bố, tôi đã đổi ngay hình đại diện để tang trên Facebook của mình. Cảm xúc ấy cũng giống như khi tôi mất đi người cha vậy, vì cha tôi cũng mới qua đời được 100 ngày, nên tôi hiểu cảm giác mất mát này đối với mình là quá lớn. Không chỉ riêng tôi, anh chị em trong giới nghệ sĩ đều thấy vô cùng bàng hoàng, hụt hẫng…
Dù tôi chưa được vinh dự gặp Tổng Bí thư, nhưng qua những việc ông đã làm, đã chỉ đạo, qua lời kể của nhiều người, qua báo chí truyền hình cũng như tình cảm của nhân dân dành cho Tổng Bí thư, tôi biết rằng không chỉ riêng mình mà rất nhiều văn nghệ sĩ, người dân đều yêu kính, trân trọng ông.
Tấm lòng Tổng Bí thư lo cho dân cho nước không khác gì một người cha, một người thân thiết ruột thịt. Hình ảnh giản dị, thanh liêm, dù tuổi cao sức yếu, bệnh nặng nhưng vẫn miệt mài làm việc đến hơi thở cuối cùng khiến ai cũng cảm phục, xúc động. Đặc biệt, sự quan tâm của Tổng Bí thư đối với văn hóa đã tiếp thêm niềm tin, sức mạnh cho đội ngũ những người sáng tạo, văn học nghệ thuật, để cùng nguyện chung sức, gắng lòng, góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đàbản sắc dân tộc như lúc sinh thời Tổng Bí thư kỳ vọng.
Không chỉ với đồng bào Việt Nam, qua theo dõi trên các kênh truyền thông trong và ngoài nước có thể thấy, nhiều quốc gia bày tỏ lòng kính trọng, tiếc thương đối với Tổng Bí thư. Điều này cho thấy tài năng và đức độ của ông đã vượt qua biên giới, nhận được sự kính quý của các nguyên thủ và người dân nhiều nước khác.
Tổng Bí thư gần gũi như người ông, người cha trong gia đình
Những ngày qua, tôi và anh chị em nghệ sĩ trong Đoàn luôn dõi theo tin tức liên quan đến Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, để hiểu thêm về một nhân cách lớn của dân tộc, một người luôn hết lòng, hết sức phụng sự cho Tổ quốc đến hơi thở cuối cùng.
Những lời chỉ đạo của Tổng Bí thư, đối với chúng tôi, chân tình như lời dặn dò, chỉ bảo của một người ông, người cha nói với các con các cháu, nhẹ nhàng màý nghĩa, giá trị biết bao. Những câu từ ông dùng không sáo rỗng, không khoa trương, không hàn lâm mà vô cùng thiết thực.
Chúng tôi luôn nhớ lời Bác Hồ đã căn dặn: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”, nên từ lâu, lực lượng văn nghệ sĩ chúng tôi nỗ lực, say mê biểu diễn, sáng tạo, góp thêm cho đời những cung bậc thăng hoa… Bản thân tôi vàcác anh chị em trong nghề luôn phấn đấu hết lòng vì nghệ thuật. Chúng tôi tự thấy mình may mắn khi những năm qua dù đất nước còn nhiều khó khăn, nhưng Đảng, Nhànước vàbản thân Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã luôn quan tâm chỉ đạo, sát cánh kề vai với ngành Văn hóa, với đội ngũ văn nghệ sĩ. Điều này như một “tấm pin” cung cấp nguồn năng lượng vô cùng quý giá để nuôi dưỡng tâm hồn của những “chiến sĩ trên mặt trận văn hóa” chúng tôi.
PGS. TS, Nhà văn Nguyễn Ngọc Thiện: “Tôi là người cùng học với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Khóa VIII Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (1963 – 1967), ngay từ những năm học dưới mái trường Tổng hợp, anh Trọng đã bước đầu bộc lộ những thiên tư đáng quý.
Anh kính thầy, yêu quý bạn bè, sống có lý tưởng và hoài bão mạnh mẽ, chuyên cần học tập, tích cực tham gia các hoạt động của lớp và nhà trường. Anh thực hiện một lối sống giản dị, trung thực, chan hòa với mọi người, đã làm là làm đến nơi đến chốn, không buông bỏ giữa chừng. Đảm nhiệm cương vị Bí thư Chi đoàn, anh kiên trì phấn đấu để ‘vừa hồng vừa chuyên’, vừa sở hữu một khối lượng tri thức chuyên ngành, chuyên sâu, vừa tích cực rèn luyện để trở thành Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Anh được kết nạp Đảng vào tháng 12 năm 1967 ngay khi kết thúc khóa học.
Lớp chúng tôi mọi người đều trân quý, mến mộ và tin cậy anh – một chàng thư sinh quê xứ Kinh Bắc hào hoa, siêng học, lịch lãm mà thân thiết, đáng mến. Sau này, khi rời ghế nhà trường, dù lập thân lập nghiệp ở các cương vị khác nhau nhưng đối với những người bạn cũ, anh Nguyễn Phú Trọng vẫn luôn gắn bó thân thiết mà không có sự cách biệt về địa vị xã hội”.
Nghệ sĩ nhiếp ảnh Vũ Huyến: “Lớp Ngữ Văn khóa VIII, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội chúng tôi hồi đó có rất sinh viên với nhiều độ tuổi khác nhau, lớp có cả học sinh, cán bộ, cán bộ ở nước ngoài về đi học. Là một người gương mẫu, anh Nguyễn Phú Trọng đã được tin tưởng giữ trọng trách Bí thư Chi đoàn lớp. Chúng tôi luôn nhớ đến anh – một sinh viên có dáng người gầy và nhỏ nhắn, một người học trò mẫu mực, chưa bao giờ bị thầy phê bình.
Thời gian đi sơ tán, chúng tôi ở với dân, một buổi đi học, một buổi về giúp đỡ dân. Là sinh viên văn nên ở đâu chúng tôi cũng tổ chức sinh hoạt văn nghệ với nhân dân. Có một điều đặc biệt rằng, dù những vở kịch chúng tôi biểu diễn anh Trọng không phải là diễn viên, đạo diễn nhưng là cán bộ đoàn nên lần nào anh cũng đi đầy đủ.
Anh Trọng là người nghiêm túc và đúng giờ, có lần họp đoàn chúng tôi còn mải mê đá bóng, văn nghệ nên đến trễ nhưng anh cứ đúng giờ là lên ngồi đúng vị trí, giở sổ ra điều hành công việc. Anh dù không khiển trách ai ghê gớm nhưng sau này chúng tôi noi gương anh mà thực hiện đúng giờ. Để thấy rằng, anh là người có khả năng hướng dẫn người khác bằng chính việc làm, hành động cụ thể của mình. Chúng tôi hồi đó vẫn nói đùa: ‘Ai chứ anh Trọng sau này dứt khoát sẽ trở thành cán bộ của Đảng thôi, vì cái chất của anh là thế’.
Lớp chúng tôi đều là những người học hành nghiêm chỉnh, anh em ra trường chủ yếu làm báo, sau này một số trở thành những cán bộ cốt cán của nhiều tờ báo. Chúng tôi thân thiết với nhau và như thành thông lệ, chuyện vui buồn đều sẽ cho nhau biết. Với anh Trọng, trong lớp khi biết ai có chuyện vui, chuyện buồn anh luôn tìm cách chia sẻ, nếu bận anh sẽ gọi điện hỏi han.
Tại những cuộc họp lớp, giữa anh và chúng tôi dường như không có ranh giới, tất cả đều như sống lại với những kỷ niệm xưa, những lúc đó anh Trọng vô cùng dí dỏm. Anh gần như không vắng mặt trong cuộc họp lớp nào, nếu bận anh sẽ gọi điện đến xin lỗi và nói rất tiếc, khi họp lớp xong sẽ gọi cho tôi hỏi thăm sức khỏe các thầy, tình hình của các bạn, rất ân cần và tỉ mỉ.
Anh Trọng luôn quan tâm mọi người như vậy, mỗi lần gặp gỡ anh đều hỏi thăm gia đình tôi, anh trai tôi, các con cháu tôi anh đều nhắc tới. Còn với tôi, khi ra cuốn sách mới nào tôi cũng đều biếu anh, có những lần bận không gặp được thì tôi gửi ở văn phòng, sau đó anh đều gọi điện và nói cám ơn.
Lần gặp gần đây nhất, anh vẫn hỏi thăm tôi về cuốn sách mới. Lần ấy, anh vẫn nhắc: ‘Ông Huyến ơi, nhớ sang năm 100 năm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam nhất định phải họp đấy nhé!’.
Được làm bạn với anh Trọng nhiều năm, lại là một nhà nhiếp ảnh nên tôi rất để ý tác phong của anh. Ở đâu cũng thế, cứ hễ gặp người già cả hay các đồng chí cán bộ lão thành anh đều ân cần, khi bắt tay anh hơi cúi người, tay còn lại thì đặt lên bàn tay, chỉ điều nhỏ ấy thôi có thể thấy rằng, ở anh Trọng, cái gì cũng xuất phát từ tấm lòng mà ra”.
Nghệ sĩ nhiếp ảnh Trần Mạnh Thường: “Năm 2013, tôi biên soạn xong cuốn sách ảnh với tựa đề Chủ tịch Hồ Chí Minh với nền ngoại giao cách mạng Việt Nam được đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ưu ái nhận lời viết Lời tựa. Ông nhận lời một phần vì tôi được NSNA Vũ Huyến giới thiệu và tôi nghĩ cũng là vì ông nhận thấy, trong cuốn sách của tôi ngoài ảnh tư liệu còn có nhiều tư liệu mới lần đầu tiên công bố bằng hình ảnh về Bác Hồ. Bày tỏ niềm xúc động của mình, tôi không in Lời tựa theo bản đánh máy mà tôi đã in bản viết tay rất trang trọng của ông.
Kể từ lần đó, gần 5 năm sau, vào năm 2018, tại Hội nghị lãnh đạo Đảng, Nhà nước gặp mặt các đại biểu trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sĩ vì thời gian không cho phép, trong số rất ít người, ông đã bắt tay tôi. Cử chỉ đó khiến tôi vô cùng xúc động bởi ông có một trí nhớ thật tuyệt vời, sau ngần ấy năm dù biết bao công việc bộn bề vậy mà ông vẫn còn nhớ tới tôi. Tôi khâm phục và sẽ mãi trân trọng điều này, đó là dấu ấn sâu sắc nhất của ông với tôi.
Qua đây để thấy rằng, ngợi ca về đức tính của vị lãnh đạo ấy không chỉ quan tâm tới những việc lớn mà còn có thể thấy ngay từ những điều rất nhỏ và bình thường như cách ông đối xử với một con người bình thường như tôi”.
Nhà thơ Vũ Quần Phương: “Tôi có một kỷ niệm với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Khi tôi chuyển công tác từ Hội Văn nghệ Hà Nội sang Hội Nhà văn Việt Nam, đồng chí Nguyễn Phú Trọng khi đó là Phó bí thư Thành ủy Hà Nội, trong buổi chia tay tôi, ông đã dành cho tôi một nghĩa cử đặc biệt.
Đó là một buổi chia tay nhỏ, được tổ chức vào buổi tối tại trụ sở Thành uỷ Hà Nội và có một số lãnh đạo sở cũng phụ trách về văn hóa, văn nghệ ở Hà Nội tham gia. Tại đó, ông đã dặn tôi một câu khiến tôi nhớ mãi: ‘Hôm nay chúng tôi đến gặp mặt và tiễn anh Phương về công tác ở Hội Nhà văn Việt Nam, chúc anh sức khỏe và công tác tốt, chỉ lưu ý anh đừng quên mình đã từng là Chủ tịch của Hội Văn nghệ Hà Nội, đã từng là Tổng Biên tập của báo Người Hà Nội, khi về trung ương có việc gì liên quan đến Hà Nội thì anh báo trước để anh em chúng tôi kịp đáp ứng’.
Đó là câu nói mà hiểu theo nghĩa khách khí thì là khách khí, thân ái cũng rất thân ái nhưng nó rất có ý nghĩa với tôi. Tôi coi như đó là lời trao nhiệm vụ của lãnh đạo thành phố đối với mình. Tôi nghĩ rằng, nó không có gì là quá lớn nhưng lại đầy ấm áp, lịch lãm và gây xúc động với một người làm cái nghề thuộc về tình cảm, tư tưởng như tôi.
Đồng chí làm ở cương vị lãnh đạo cao nhất của Đảng hơn 10 năm nay, chúng ta là những người dân bình thường nhưng sự ra đi của ông lại khiến tất cả người dân đều cảm thấy có sự xao động trong tâm hồn mình, xao động một cách thực sự. Trong khu tôi sống, không khí dường như lắng xuống và mọi người đều cảm thấy nỗi buồn cứ hiện diện thật lâu trong lòng.
Có lẽ sau sự kiện Bác Hồ ra đi năm 1969 thì bây giờ, mỗi người chúng ta lại như đang nhắc lại ở trong tâm hồn mình những kỷ niệm làm xáo trộn như vậy. Nó cho thấy tình cảm thật đặc biệt, thật đáng quý của người dân đối với người lãnh đạo cao nhất đất nước”.
PGS. TS, Nhạc sỹ Đỗ Hồng Quân: “Tại thời điểm này tôi vô cùng xúc động, vì ngày 22/7/2023, cách đây đúng một năm về trước, tôi trong vai trò là Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam đã được đến và chuyển tận tay giấy mời đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tham dự Lễ kỷ niệm 75 năm Ngày thành lập Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam vào ngày 25/7/2023. Trong suốt một năm qua, những kỷ niệm, lời dặn dò của Tổng Bí thư vẫn vang lên bên tôi như ông đang ở bên cạnh mình.
Trong câu chuyện của chúng tôi ngày hôm đó, ông đã nói rất nhiều về văn hóa, văn học nghệ thuật và chỉ có người am hiểu sâu sắc về lĩnh vực này mới có thể nói một cách cuốn hút như thế. Cảm nhận được sự thấu hiểu và quan tâm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với văn học nghệ thuật, thay mặt Đảng đoàn Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, tôi đã xin phép trong Lễ kỷ niệm 75 năm Ngày thành lập Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam được kính trao tặng đồng chí Tổng Bí thư kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp Văn học nghệ thuật”. Ông nói ngay: ‘Đối với tôi thế này là vinh dự quá!’.
Và trong buổi lễ, tôi đã trân trọng gắn kỷ niệm chương lên ngực áo của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Đối với Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, đây là một sự kiện vô cùng lớn và vinh dự. Trong khoảnh khắc xúc động đó, các văn nghệ sĩ chúng tôi càng thêm khẳng định rằng, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là một chiến sĩ lỗi lạc, một nhà lãnh đạo xuất sắc trên mặt trận văn hóa.
Qua nhiều lần được gặp gỡ và tiếp xúc, tôi nhận thấy Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là một con người có nhiều phẩm chất đáng quý, ông dung dị, có lối sống trong sạch, ông là tấm gương sáng cho chúng ta học tập, noi theo. Đức tính giản dị, cử chỉ ấm áp, gần gũi của đồng chí được học tập từ phong cách, đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh và ông xứng đáng là người học trò xuất sắc của Bác Hồ”.
Nghệ sĩ nhiếp ảnh Hoàng Kim Đáng: Nhà tôi gần quê hương Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ cách một cây cầu và dòng sông Đuống. Mặc dù gần gũi nhưng khi nghe tin Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng qua đời mọi người đều ngỡ ngàng và thương tiếc.
Ông rất quan tâm đến lực lượng văn nghệ sĩ, từ khi còn là Bí thư Thành ủy Hà Nội cho đến Chủ tịch Quốc hội và mấy nhiệm kỳ Tổng Bí thư nhưng với những sự kiện về văn học nghệ thuật thì ít khi đồng chí không có mặt và phát biểu thân mật với tinh thần như một người bạn lớn của giới văn nghệ sĩ.
Trong cuộc chống tham nhũng, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói là làm, không thay đổi, không có vùng cấm, kiên quyết không lùi bước. Uy tín của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng không chỉ ở quê hương, ở trong nước mà còn cả nước ngoài.
Đến khi trả lời cuộc phỏng vấn này, tôi vừa được biết tin nước Cộng hòa Cuba tổ chức Quốc tang Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Quốc hội Chính quyền Nhân dân Cuba đã dành một phút mặc niệm để tưởng nhớ đồng chí, điều đó khiến tôi vô cùng xúc động”.
Họa sĩ Đỗ Ngọc Dũng: “Cũng như mọi người dân Việt Nam, tôi vô cùng kính trọng Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, một con người giản dị, thanh cao, sang trọng, cả một đời vì nước vì dân cho đến phút cuối cùng.
Các nghệ sĩ trong giới hội họa của chúng tôi ở tỉnh Phú Thọ cũng đều cho rằng, đức tính của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thật dễ khiến người ta nhớ tới Bác Hồ.
Tôi nhớ lại những kỳ Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam tổ chức Lễ kỷ niệm ngày thành lập có ông đến dự, tôi đều lắng nghe rất kỹ bài phát biểu của ông, trong đó, ông luôn đánh giá cao vai trò của văn học nghệ thuật đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc.
Sự ra đi đột ngột của đồng chí Nguyễn Phú Trọng khiến chúng tôi rất bàng hoàng và xúc động, ngay trong gia đình tôi, các thành viên đều đã có những phút lặng người trước sự ra đi của vị lãnh đạo ấy, ông đã thực sự để lại nhiều dấu ấn trong lòng người dân.
Tôi nghĩ trong đời tôi, kể từ lần chứng kiến sự ra đi của Bác Hồ khi tôi còn bé thì đây là lần tôi xúc động và thương tiếc như vậy, cảm giác như mình mất mát một cái gì đó to lớn lắm.
Từ khi nghe tin buồn đó, tôi đã dành nhiều thời gian hơn để đọc báo, nghe tin tức và tìm kiếm những hình ảnh về Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, cũng như những câu nói ấn tượng mà ông đã răn dạy cán bộ đảng viên”.
Nhà văn Lê Hoài Nam: “Từ khi tham gia quân đội thời chiến tranh chống Mỹ cho đến khi trở thành nhà văn, tôi đã viết tất cả những gì Đảng, Tổ quốc và Nhân dân trông đợi. Tôi là một nhà văn và tôi cũng yêu kính Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thành thật.
Cuộc đời của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng rất đẹp. Đẹp vì ông thấm nhuần đạo lý dân tộc, đặc biệt là đạo đức, phong cách chủ tịch Hồ Chí Minh. Chính vì thế mà ông được cán bộ và nhân dân yêu kính vô bờ bến.
Tôi coi ông là một nhân vật có tư tưởng canh Tân lớn đối với đất nước. Chính tư tưởng canh Tân lớn ấy, ông đã đưa Việt Nam làm bạn với tất cả các nước lớn trên thế giới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do ông chèo lái, Việt Nam đã trở thành một đất nước có uy tín trên trường quốc tế.
Với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, mỗi lần ông lên diễn đàn tôi đều rất chú ý quan sát, lắng nghe. Quả thật những gì ông nói, dù ở đâu, dù bằng lời nói rất chân thành, giản dị nhưng lại thể hiện những giá trị văn hóa rất cao, đặc biệt là văn hóa dân tộc. Mỗi lần ông nhắc đến một tác phẩm văn học nào đó, không hề có tính khoa trương, nó vừa đủ cho ý tưởng ông muốn nói. Vì thế nó thấm vào người nghe rất sâu đậm”.
Lực lượng văn nghệ sĩ nước nhà sẽ nhớ mãi về Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng như một nhà lãnh đạo cấp cao có tầm tư duy chiến lược, luôn trăn trở, lo toan cho dân, cho nước nhưng cũng giản dị, gần gũi và giàu lòng nhân ái. Với sự am hiểu thực tiễn phong phú và tư duy lý luận sắc bén, sự am hiểu sâu sắc về đặc trưng của từng loại hình văn học nghệ thuật, đồng chí Tổng Bí thư đã có những chỉ đạo toàn diện đối với lĩnh vực này. Những di sản của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng để lại sẽ còn mãi với thời gian, còn mãi trong trái tim đồng bào, tiếp tục được các thế hệ lãnh đạo kế tục coi là kim chỉ nam trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam phồn vinh, giàu đẹp.
Sáng 19/7, Thủ tướng Phạm Minh Chính, Chủ tịch Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số chủ trì Hội nghị Thường trực Chính phủ về chuyển đổi số với các đồng chí Bộ trưởng, Trưởng ngành, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Hội nghị được kết nối trực tuyến từ trụ sở Chính phủ tới UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Cùng tham dự Hội nghị có Phó Thủ tướng Lê Minh Khái, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà, Phó Thủ tướng Lê Thành Long; các đồng chí Bộ trưởng, Trưởng ngành, các thành viên Ủy ban Quốc gia và Tổ công tác triển khai Đề án 06 của Chính phủ, lãnh đạo UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Hội nghị tập trung đánh giá tình hình chuyển đổi số thời gian qua, kết quả, thành tựu, tồn tại, hạn chế, phân tích nguyên nhân, bài học kinh nghiệm, đề xuất các nhiệm vụ, giải pháp thời gian tới.
Các báo cáo, ý kiến phát biểu tại Hội nghị thống nhất đánh giá có 8 kết quả nổi bật trong chuyển đổi số thời gian qua.
Thứ nhất, công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện được triển khai quyết liệt, đồng bộ với quyết tâm cao từ Trung ương đến cơ sở. Giai đoạn 2021-2024, Thủ tướng Chính phủ ban hành 43 quyết định, 14 chỉ thị, 4 công điện và các bộ, ngành đã ban hành theo thẩm quyền nhiều văn bản hướng dẫn chuyển đổi số và triển khai Đề án 06. Tổ chức 9 phiên họp Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số và 40 phiên họp của Đề án 06.
Thứ hai, nhận thức và hành động về chuyển đổi số quốc gia tiếp tục chuyển biến tích cực, có sự lan tỏa ở các cấp, các ngành, các địa phương, nhất là người đứng đầu; có sự hưởng ứng và tham gia nhiệt tình của các tổ chức đoàn thể như thanh niên, sinh viên, công đoàn, nông dân, phụ nữ, cựu chiến binh.
Thứ ba, công tác hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách tạo khuôn khổ pháp lý và tạo thuận lợi cho chuyển đổi số quốc gia và Đề án 06 được triển khai tích cực. Giai đoạn 2021-2024, Quốc hội đã ban hành 3 luật liên quan (Luật Viễn thông, Luật Giao dịch điện tử, Luật Căn cước). Chính phủ đã ban hành 19 nghị định. Các bộ, ngành đã ban hành theo thẩm quyền 45 thông tư.
Thứ tư, Chính phủ số tiếp tục có bước phát triển. Cung cấp dịch vụ công trực tuyến cho người dân, doanh nghiệp được đẩy mạnh (đã có 16,4 triệu tài khoản trên Cổng Dịch vụ công quốc gia; cung cấp 4.543/6.325 thủ tục hành chính, 43/53 dịch vụ công thiết yếu của Đề án 06).
Thứ năm, kinh tế số, xã hội số tiếp tục phát triển mạnh mẽ.
Sản phẩm số của doanh nghiệp Việt Nam tiếp tục phát triển và xuất khẩu đi khắp thế giới. Theo báo cáo của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu sản phẩm số tăng từ 113,5 tỷ USD năm 2021 lên 117,3 tỷ USD năm 2023; 6 tháng năm 2024 đạt 64,9 tỷ USD, tăng 23%.
Doanh thu phần mềm và dịch vụ công nghệ thông tin tăng khá (năm 2023: 13 tỷ USD; 6 tháng 2024: 6 tỷ USD); xuất khẩu năm 2023 đạt 7,5 tỷ USD; 6 tháng 2024 đạt gần 3 tỷ USD.
Nhiều tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới đã đầu tư lớn tại Việt Nam, cam kết đầu tư mới và mở rộng đầu tư, nhất là trong lĩnh vực mới như điện tử, chip bán dẫn, nghiên cứu phát triển, trí tuệ nhân tạo…
Số hóa các ngành kinh tế, công tác chuyển đổi số trong quản lý, đầu tư xây dựng, sản xuất được triển khai mạnh mẽ. Doanh thu thương mại điện tử tăng từ 13,7 tỷ USD năm 2021 lên 20,5 tỷ USD năm 2023. Hàng trăm sản phẩm OCOP đã được bán thông qua các sàn thương mại điện tử trong nước và xuyên biên giới, tạo sinh kế và thu nhập cao cho người nông dân.
Thanh toán không dùng tiền mặt được triển khai rộng khắp trên phạm vi cả nước. Tỉ lệ người trưởng thành có tài khoản thanh toán đạt 87%, vượt mục tiêu năm 2025 là 80%. Hiện có 9,13 triệu khách hàng sử dụng Mobile Money, trong đó 72% khách hàng tại khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.
Hệ thống thuế điện tử được xây dựng đồng bộ từ đăng ký thuế đến khai thuế, nộp thuế, hoàn thuế điện tử và triển khai Hệ thống hoá đơn điện tử trên toàn quốc (xử lý 8,8 tỷ hóa đơn).
Chuyển đổi số phục vụ người dân, an sinh xã hội có bước phát triển mạnh mẽ, như đăng ký thi tốt nghiệp THPT, đăng ký xét tuyển trực tuyến trong giáo dục; liên thông dữ liệu khám sức khỏe lái xe, giấy chứng sinh, khai tử…; trong bảo hiểm xã hội (trong cao điểm COVID-19, trong 1 tháng, đã chi trả 31.836 tỷ đồng cho trên 13,3 triệu lượt người lao động qua hệ thống điện tử); 63/63 địa phương thực hiện chi trả an sinh xã hội qua tài khoản cho 1,96 triệu người với số tiền trên 8.280 tỷ đồng.
Thứ sáu, cơ sở dữ liệu quốc gia, chuyên ngành được đẩy mạnh triển khai và kết nối, tích hợp, chia sẻ dữ liệu. Các cơ sở dữ liệu mang tính nền tảng như: Dân cư, thuế, bảo hiểm, doanh nghiệp, giáo dục và đào tạo… đã đi vào vận hành ổn định, mang lại hiệu quả tích cực.
Thứ bảy, hạ tầng số, nền tảng số được quan tâm đầu tư và có bước phát triển. 100% xã, phường, thị trấn kết nối Internet cáp quang.
Thứ tám, nhiều tổ chức quốc tế đánh giá về kết quả chuyển đổi số của Việt Nam. Chỉ số Chính phủ điện tử năm 2022 xếp hạng 86/193. Chỉ số Đổi mới sáng tạo luôn duy trì trong nhóm 50 nước dẫn đầu từ năm 2018 đến nay; năm 2023 xếp hạng 46/132. Chỉ số Bưu chính năm 2023 đạt cấp độ 6/10, xếp hạng 47/172.
Chỉ bàn làm, không bàn lùi, khó mấy cũng phải làm
Phát biểu kết luận, Thủ tướng Phạm Minh Chính giao Bộ Công an, Bộ Thông tin và Truyền thông, Văn phòng Chính phủ tiếp thu các ý kiến, hoàn thiện và trình ban hành Nghị quyết của Chính phủ về chuyển đổi số để thống nhất triển khai trong giai đoạn tới.
Theo Thủ tướng, việc đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia có cơ sở chính trị là Văn kiện Đại hội XIII của Đảng; Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 01/7/2014 của Bộ Chính trị (khóa XI) về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển CNTT đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế; Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; Chương trình chuyển đổi số quốc gia, Chiến lược phát triển Chính phủ số, Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số, xã hội số, Chiến lược quốc gia về dữ liệu số và Đề án 06; cùng nhiều nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ có liên quan tới vấn đề này.
Về mặt thực tiễn, đây là đòi hỏi khách quan, “chỉ bàn làm, không bàn lùi, khó mấy cũng phải làm”, Thủ tướng nhấn mạnh.
Về kết quả, cơ bản đồng tình với các báo cáo và ý kiến tại Hội nghị, Thủ tướng đánh giá chuyển đổi số đã trở thành phong trào, xu thế, là yêu cầu khách quan và lựa chọn chiến lược, ưu tiên hàng đầu. Trong giai đoạn 2021-2024, chuyển đổi số được đẩy mạnh theo hướng toàn dân, toàn diện, bao trùm, xuyên suốt, có kết quả thiết thực, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
“Công tác chỉ đạo, điều hành đã có kinh nghiệm hơn, lớp lang, bài bản, bám sát thực tiễn hơn, có kết quả tốt hơn. Chuyển đổi số đã đến “từng ngõ, từng nhà, từng người”. Niềm tin của người dân và doanh nghiệp được củng cố, nâng lên, góp phần truyền cảm hứng và tạo động lực phát triển mới. Chuyển đổi số rất phù hợp với phẩm chất, năng lực người Việt Nam là cần cù, ham học hỏi, linh hoạt và sáng tạo”, Thủ tướng nhấn mạnh.
Thay mặt Chính phủ, Thủ tướng ghi nhận, biểu dương và đánh giá cao những nỗ lực, cố gắng và kết quả đạt được của các bộ, ngành, địa phương; sự chỉ đạo quyết liệt của các thành viên Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số và Tổ công tác Đề án 06; sự đồng lòng, ủng hộ và tham gia tích cực của người dân, doanh nghiệp.
Bên cạnh những kết quả đạt được, Thủ tướng cũng chỉ rõ những tồn tại, hạn chế, khó khăn trong chuyển đổi số. Nhiều lãnh đạo các ban, bộ, ngành, địa phương chưa coi chuyển đổi số là nhiệm vụ trọng tâm, chưa thực sự quan tâm, chỉ đạo, ưu tiên nguồn lực cho chuyển đổi số. Xây dựng, sửa đổi, bổ sung thể chế, cơ chế, chính sách thúc đẩy chuyển đổi số còn chậm, chưa đầy đủ, chưa theo kịp yêu cầu thực tiễn.
Kinh tế số, hạ tầng số phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và tốc độ tăng trưởng; vẫn còn nhiều thôn, bản chưa có đường cáp quang; nhiều điểm lõm sóng, lõm điện. Phát triển nền tảng số, dữ liệu số chưa khắc phục được tình trạng “manh mún, cát cứ thông tin, chia cắt, co cụm dữ liệu”.
Công tác an ninh mạng, an toàn thông tin nhiều nơi chưa được quan tâm đúng mức. Chất lượng cung cấp dịch vụ công trực tuyến chưa cao. Nhân lực cho chuyển đổi số, Đề án 06 còn chưa đáp ứng nhu cầu cả về số lượng, chất lượng, phân bổ chưa đồng đều, nhất là nhân lực trình độ cao và trong các ngành kinh tế mới nổi. Công tác tuyên truyền, tạo đồng thuận xã hội còn nhiều bất cập, chưa thường xuyên, liên tục, trọng tâm, trọng điểm.
Sau khi phân tích các nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế, Thủ tướng khái quát 5 bài học kinh nghiệm quan trọng.
Thứ nhất, phải huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, các bộ, ngành, địa phương và sự hưởng ứng, tham gia tích cực của toàn dân, cộng đồng doanh nghiệp là yếu tố quan trọng nhất bảo đảm sự thành công của chuyển đổi số quốc gia.
Thứ hai, phải có chương trình, kế hoạch cụ thể, phân công rõ người, rõ việc, rõ ưu tiên, rõ thời gian, rõ kết quả để dễ kiểm tra, dễ giám sát, đánh giá, dễ khen thưởng, kỷ luật phù hợp. Phải tổ chức triển khai quyết liệt, đồng bộ, “làm việc nào dứt việc đó”, tăng cường phối hợp, bám sát thực tế, phản ứng linh hoạt, kịp thời, hiệu quả.
Thứ ba, phải đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách, mạnh dạn thí điểm các mô hình mới đáp ứng yêu cầu thực tiễn và xu thế phát triển. Huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực, phát huy mạnh mẽ đầu tư đối tác công tư, lấy đầu tư công dẫn dắt, kích hoạt đầu tư tư.
Thứ tư, phải luôn giữ vững kỷ luật, kỷ cương; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với phân bổ nguồn lực gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát; kiên quyết phòng chống tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm; đẩy mạnh truyền thông chính sách, góp phần tạo đồng thuận xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân.
Thứ năm, phải lấy người dân, doanh nghiệp là trung tâm, là chủ thể và là mục tiêu; luôn cầu thị, lắng nghe phản ánh của người dân, doanh nghiệp. Phải nói thật, làm thật, để người dân, doanh nghiệp được thụ hưởng thật những thành quả do chuyển đổi số mang lại theo tinh thần “không để ai bị bỏ lại phía sau”.
Điều quan trọng nhất, quyết định nhất trong chuyển đổi số
Về định hướng thời gian tới, Thủ tướng chỉ rõ, điều quan trọng nhất, quyết định nhất, mang tính chiến lược, lâu dài, cơ bản là các bộ trưởng, trưởng ngành, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố phải tiên phong, gương mẫu thúc đẩy chuyển đổi số thuộc phạm vi quản lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, “đã quyết tâm rồi phải quyết tâm cao hơn, đã nỗ lực rồi phải nỗ lực hơn, làm việc có trọng tâm, trọng điểm rồi phải xác định trọng tâm, trọng điểm hơn nữa, đã hiệu quả rồi phải hiệu quả hơn nữa”.
Thủ tướng yêu cầu phân công công việc “rõ mục tiêu, rõ người, rõ việc, rõ thời gian, rõ trách nhiệm, rõ sản phẩm, rõ kết quả” và tăng cường kiểm tra, giám sát, đôn đốc để bảo đảm tiến độ, chất lượng công việc, phòng chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, tăng cường phối hợp và kỷ luật kỷ cương hành chính, tuân thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp trên.
Trong đó, Thủ tướng lưu ý 5 trọng tâm gồm: (i) Phát triển nhân lực số, công dân số, kỹ năng số, tài năng số; (ii) Ưu tiên nguồn lực cho chuyển đổi số; (iii) Phát triển hạ tầng số toàn diện nhưng phù hợp, tiết kiệm, hiệu quả; (iv) Quản lý, điều hành số hóa, thông minh; (v) Khẩn trương hoàn thiện cơ chế, chính sách cho chuyển đổi số theo hướng tăng cường phân cấp, phân quyền, phát huy tính chủ động, sáng tạo của các cấp gắn với phân bổ nguồn lực phù hợp, nâng cao năng lực thực thi và tăng cường kiểm tra, giám sát, giảm thủ tục phiền hà, sách nhiễu, xóa xin cho và phòng chống tiêu cực, tham nhũng.
Thủ tướng nhấn mạnh, cần mạnh dạn “tăng tốc”, “bứt phá” trong chuyển đổi số với khí thế tiến công mạnh mẽ, phát huy tinh thần 5 “đẩy mạnh”, 5 “bảo đảm” gắn với 5 “không”.
“5 đẩy mạnh” gồm: (1) Đẩy mạnh thống nhất nhận thức và hành động của người lãnh đạo trong chuyển đổi số, phát huy tính tiên phong, nêu gương, đi đầu; (2) Đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách, để thúc đẩy chuyển đổi số, phù hợp với thông lệ quốc tế; thúc đẩy phát triển kinh tế số, xã hội số, công dân số; (3) Đẩy mạnh đầu tư hạ tầng số quốc gia thông suốt, phát triển nền tảng số, dữ liệu số, hệ sinh thái số thuận tiện; (4) Đẩy mạnh an ninh mạng, an toàn thông tin, bảo vệ dữ liệu, bảo vệ chủ quyền không gian mạng quốc gia từ sớm, từ xa; (5) Đẩy mạnh xây dựng văn hóa số, góp phần xây dựng nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc và hội nhập thế giới.
“5 bảo đảm” gồm (1) Bảo đảm triển khai chuyển đổi số, Đề án 06 đồng bộ, hiệu quả tại tất cả các bộ, ngành, địa phương, các lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường để người dân, doanh nghiệp được thụ hưởng; (2) Bảo đảm nguồn lực cho chuyển đổi số quốc gia, nhất là đầu tư phát triển hạ tầng số, nền tảng số, đào tạo nhân lực số; (3) Bảo đảm 100% dịch vụ công trực tuyến thiết yếu cho người dân, tiếp cận dễ dàng, an toàn, tiện lợi, tiết giảm chi phí; (4) Bảo đảm nhân lực cho chuyển đổi số và các ngành kinh tế mới nổi, chú trọng đào tạo kĩ năng số gắn với nhu cầu thị trường; (5) Bảo đảm hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, người dân và doanh nghiệp, nhà đầu tư, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển bền vững.
“5 không” gồm: (1) Không nói không, không nói khó, không nói có mà không làm; không bàn lùi, chỉ bàn làm; (2) Không để ai bị bỏ lại phía sau trong tiến trình chuyển đổi số quốc gia, triển khai Đề án 06; (3) Không tiền mặt, hướng tới mọi giao dịch thông qua phương thức điện tử, phòng chống tham nhũng; (4) Không giấy tờ, hướng tới số hóa toàn diện; (5) Không để người dân, doanh nghiệp mất nhiều thời gian, công sức, chi phí tuân thủ.
“Hạ tầng số phải phát triển, đi trước một bước”
Chỉ rõ một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu, Thủ tướng trước hết yêu cầu tiếp tục thống nhất, nâng cao nhận thức, hành động và tổ chức thực hiện của người lãnh đạo các bộ ngành, địa phương trong chuyển đổi số; theo nguyên tắc “lãnh đạo, chỉ đạo từ trên xuống nhưng tổ chức thực hiện, tháo gỡ vướng mắc phải từ dưới lên”.
Thứ hai, triển khai Nghị quyết của Đảng và xây dựng, hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách trong chuyển đổi số.
Thứ ba, về phát triển kinh tế số, Thủ tướng giao Bộ Thông tin và Truyền thông khẩn thương hoàn thiện và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành “Chiến lược Phát triển ngành công nghiệp bán dẫn Việt Nam đến năm 2030”.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sớm hoàn thiện, trình Chính phủ ban hành “Nghị định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng”.
Bộ Công Thương khẩn trương nghiên cứu, đề xuất sửa đổi các luật và văn bản hướng dẫn liên quan đến thương mại điện tử, nhất là Luật Bảo vệ người tiêu dùng, nghiên cứu xây dựng Chiến lược phát triển thương mại điện tử nhằm quản lý, phát triển các nền tảng thương mại điện tử trong nước, xuyên biên giới, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng, bảo đảm tính cạnh tranh và ngăn chặn các hành vi bán hàng giả, hàng không rõ nguồn gốc xuất xứ, hàng kém chất lượng.
Bộ Tài chính khẩn trương hoàn thiện trình Chính phủ ban hành Nghị định sửa đổi Nghị định số 123/2020/NĐ-CP quy định về áp dụng hóa đơn điện tử đối với các giao dịch thương mại điện tử và các hoạt động livestream, dịch vụ ăn uống…
Thứ tư, về dịch vụ công trực tuyến, Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành tập trung triển khai phấn đấu đến hết năm 2024 đạt 80% dịch vụ công trực tuyến toàn trình, 40% dân số trưởng thành sử dụng dịch vụ công trực tuyến, 90% người dân, doanh nghiệp hài lòng trong giải quyết thủ tục hành chính; đến năm 2025 đạt 100% hồ sơ giải quyết thủ tục hành chính được gắn định danh cá nhân.
Các bộ, ngành, địa phương đẩy nhanh tiến độ số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết thủ tục hành chính; xây dựng cơ sở dữ liệu của ngành, địa phương và kết nối với cơ sở dữ liệu quốc gia.
Thứ năm, về hạ tầng, Thủ tướng nêu rõ thời gian qua, chúng ta đã chú trọng đầu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng giao thông quan trọng (như đường bộ cao tốc, cảng biển, cảng hàng không…); thời gian tới, chúng ta phải chú trọng đầu tư cho phát triển hạ tầng số tương xứng tầm vóc, tầm quan trọng, quan điểm là “hạ tầng số phải phát triển, đi trước một bước”.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Thông tin và Truyền thông phối hợp, nghiên cứu đầu tư thích đáng cho phát triển hạ tầng số, nền tảng số, dữ liệu số từ nguồn vốn kế hoạch đầu tư trung hạn giai đoạn 2026-2030; Bộ Tài chính tổng hợp và phân bổ ngân sách chi thường xuyên cho chuyển đổi số và Đề án 06 ổn định trong giai đoạn 2026-2030. Bộ Thông tin và Truyền thông sớm nghiên cứu trình cấp có thẩm quyền ban hành Kế hoạch phát triển hạ tầng viễn thông Việt Nam giai đoạn 2026-2030.
Thứ sáu, về triển khai Đề án 06, Thủ tướng yêu cầu Bộ Công an khẩn trương hoàn thiện đề nghị xây dựng Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân và Luật Dữ liệu; tham mưu xây dựng, trình Thủ tướng ban hành Chỉ thị về đẩy mạnh triển khai Nghị quyết 175/NQ-CP để đẩy nhanh tiến độ xây dựng Trung tâm dữ liệu quốc gia; phối hợp với các bộ, ngành, địa phương xác định lộ trình để đưa các tiện ích thiết yếu lên ứng dụng VNeID, nhất là hoàn thành lý lịch tư pháp, sổ sức khỏe điện tử, giấy khai sinh, kết hôn… để người dân trên cả nước được sử dụng, thụ hưởng, hoàn thành trước 31/12/2024.
Thứ bảy, về phát triển nền tảng số, dữ liệu số, nhân lực số, Bộ Kế hoạch và Đầu tư khẩn trương hoàn thiện, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Đề án “Phát triển nguồn nhân lực ngành công nghiệp bán dẫn đến năm 2030, định hướng đến năm 2045”.
Thứ tám, về an ninh, an toàn thông tin, các bộ, ngành, địa phương khẩn trương hoàn thành việc bảo đảm an toàn thông tin theo cấp độ; rà soát, nâng cấp an ninh an toàn các hệ thống thông tin thuộc trách nhiệm quản lý của đơn vị mình theo hướng dẫn của Bộ Thông tin và Truyền thông.
Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Bộ Quốc phòng, Bộ Thông tin và Truyền thông tăng cường phối hợp, thường xuyên đánh giá, hướng dẫn, giám sát, bảo vệ hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu quốc gia, chuyên ngành.
Diễn đàn do Bộ VHTTDL Việt Nam phối hợp với cơ quan hữu quan tổ chức Diễn đàn Xúc tiến du lịch, văn hóa Việt Nam tại Hàn Quốc năm 2024.
Tham dự Diễn đàn, về phía Việt Nam có Bộ trưởng Bộ VHTTDL Việt Nam Nguyễn Văn Hùng; Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn; Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng; Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên…, cùng đại diện lãnh đạo các địa phương, doanh nghiệp…
Về phía Hàn Quốc có bà Jang Mi-ran, Thứ trưởng Bộ VHTTDL Hàn Quốc cùng các nhà hoạch định chính sách, diễn giả, lãnh đạo cơ quan du lịch Hàn Quốc, đại diện các Bộ, ngành và doanh nghiệp Hàn Quốc có hợp tác với Việt Nam, đại diện các hội hữu nghị Việt – Hàn.
Phấn đấu sớm đạt 5,5 triệu lượt du khách
Đánh giá cao việc tổ chức diễn đàn có nhiều ý nghĩa với các ý kiến phát biểu tâm huyết, đề xuất các dự án khả thi, Thủ tướng Phạm Minh Chính cho rằng, trong bối cảnh tình hình thế giới hiện nay, phát triển bền vững, bao trùm và tăng trưởng xanh trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết đối với tất cả các quốc gia. Trong đó, văn hóa nổi lên như một động lực của sự phát triển bền vững, nhờ đó giúp du lịch toàn cầu tăng trưởng trở lại với tốc độ nhanh hơn dự báo.
Dẫn báo cáo của Hội đồng Du lịch và Lữ hành Thế giới (WTTC), năm 2023 du lịch đóng góp 15.500 tỷ USD, bằng 11,6% GDP toàn cầu với 430 triệu người làm việc, Thủ tướng nhấn mạnh, chìa khóa cho tương lai của du lịch sẽ là du lịch tái tạo, phát triển du lịch bền vững hơn gắn với bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa, truyền thống và môi trường.
Theo Thủ tướng, cùng là hai quốc gia châu Á với nhiều điểm tương đồng trong văn hóa và lịch sử, trong hơn 30 năm qua, quan hệ Việt Nam-Hàn Quốc có những bước phát triển vượt bậc, trở thành Đối tác chiến lược toàn diện vào năm 2022 và đang ở giai đoạn phát triển tốt đẹp cũng như thuận lợi nhất từ trước đến nay.
Hàn Quốc hiện là đối tác đứng thứ nhất của Việt Nam về đầu tư FDI (đạt 87 tỷ USD), thứ hai về hợp tác phát triển và thứ ba về thương mại (năm 2023 đạt 76 tỷ USD).
Đặc biệt, hợp tác về du lịch và văn hóa là một điểm sáng. Hàn Quốc đã vươn lên trở thành thị trường số 1 gửi khách đến Việt Nam. Năm 2023, số lượng du khách giữa hai nước đạt hơn 4 triệu lượt; 5 tháng đầu năm 2024 đạt gần 2,2 triệu lượt, tăng 9% so với cùng kỳ năm 2019 trước đại dịch, cho thấy sự phục hồi hoàn toàn và gia tăng giao lưu du lịch hai nước.
Trong phát biểu tại Diễn đàn, Thủ tướng cũng dành thời gian phân tích về tiềm năng, triển vọng phát triển du lịch và hợp tác văn hóa Việt Nam-Hàn Quốc. Theo đó, tin cậy về chính trị, nền tảng hợp tác tốt đẹp về văn hóa với những giá trị đặc sắc, tiêu biểu từ hai phía tạo đà phát triển mạnh mẽ cho du lịch, hợp tác văn hoá, giao lưu nhân dân. Hiện có 280.000 người Việt Nam tại Hàn Quốc, khoảng 200.000 người Hàn Quốc tại Việt Nam, 80.000 gia đình đa văn hóa Việt-Hàn.
Việt Nam và Hàn Quốc là những đất nước tươi đẹp, khí hậu bốn mùa, giàu truyền thống văn hóa, lịch sử, thiên nhiên hùng vĩ, con người hiền hòa, mến khách, sản phẩm du lịch phong phú, đặc sắc bổ sung, hỗ trợ nhau và đều là điểm đến du lịch hấp dẫn.
Thủ tướng cho biết Việt Nam có 8 di sản thế giới được UNESCO công nhận, trong đó: 5 di sản văn hóa (Cố đô Huế, Phố cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn, Hoàng thành Thăng Long, Thành nhà Hồ), 2 di sản thiên nhiên (Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng, Vịnh Hạ Long) và 1 di sản thế giới hỗn hợp (Quần thể danh thắng Tràng An). Những bãi biển đẹp, những cảnh quan kỳ vĩ, huyền bí, hấp dẫn như Đồng bằng sông Cửu Long làm nên “Vẻ đẹp bất tận” Việt Nam cuốn hút du khách quốc tế khám phá, trải nghiệm.
Trong khi đó, Hàn Quốc sở hữu 16 di sản thế giới, trong đó có 14 di sản văn hóa và 2 di sản thiên nhiên (Đảo núi lửa Jeju và Bãi lộ thủy triều Getbol), nhiều khu du lịch với phong cảnh đẹp và văn hóa giao thoa giữa truyền thống và hiện đại (Seoul, đảo Nami, đảo Jeju…).
Sự phát triển mạnh mẽ của quan hệ kinh tế – thương mại – đầu tư tạo dư địa và thúc đẩy du lịch, hợp tác văn hóa giữa hai nước. Trong đó, hai bên tiếp tục mở thêm đường bay mới, đưa ra các sản phẩm mới, hấp dẫn và độc đáo; tổ chức nhiều lễ hội văn hóa, chương trình nghệ thuật cùng các chiến dịch xúc tiến quảng bá du lịch…
Về định hướng phát triển du lịch của Việt Nam, Thủ tướng cho biết với phương châm “Sản phẩm đặc sắc – Dịch vụ chuyên nghiệp – Thủ tục thuận tiện, đơn giản – Giá cả cạnh tranh – Môi trường vệ sinh sạch, đẹp – Điểm đến an toàn, văn minh, thân thiện”, Việt Nam đã đề ra 7 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu phát triển du lịch hiệu quả, bền vững; quyết tâm phát triển du lịch thực sự là ngành kinh tế mũi nhọn, thuộc nhóm 30 quốc gia có năng lực cạnh tranh du lịch hàng đầu thế giới.
Việt Nam tập trung phát triển du lịch toàn diện, nhanh và bền vững với phương châm “Liên kết chặt chẽ – Phối hợp nhịp nhàng – Hợp tác sâu rộng – Bao trùm toàn diện – Hiệu quả bền vững”; với cách tiếp cận toàn diện, toàn dân, toàn cầu; phát triển hệ sinh thái du lịch bền vững, hình thành chuỗi giá trị, liên kết du lịch quốc gia và toàn cầu.
Từ ngày 15/8/2023, Việt Nam đã kéo dài thời hạn lưu trú cho khách du lịch Hàn Quốc từ 15 ngày lên 45 ngày; đối với khách nhập cảnh bằng thị thực điện tử e-visa, thời gian lưu trú kéo dài lên 90 ngày.
Thủ tướng mong rằng, hai bên sẽ cùng nhau đưa ra những chương trình hợp tác, dự án cụ thể, thiết thực, đưa du lịch Việt Nam và Hàn Quốc lên một tầm cao mới, phấn đấu sớm đạt 5,5 triệu lượt du khách, tương xứng với quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước.
Hỗ trợ, tạo điều kiện cho việc thành lập Trung tâm Văn hóa Việt Nam tại Hàn Quốc
Về lĩnh vực văn hóa, Thủ tướng nhìn nhận quan hệ hợp tác văn hóa Việt Nam-Hàn Quốc không ngừng được vun đắp, phát triển mạnh mẽ trong thời gian qua, tạo cơ sở vững chắc, sâu sắc cho quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện. Văn hóa và du lịch luôn đồng hành, bổ sung cho nhau, cùng phát triển.
Thủ tướng đánh giá cao nỗ lực và kết quả hợp tác giữa Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch hai nước trong việc triển khai các văn kiện đã ký kết về hợp tác văn hóa nói chung và hợp tác phát triển các ngành công nghiệp văn hóa nói riêng.
Theo Thủ tướng, trong khoảng 30 năm trở lại đây, Hàn Quốc đã có những bước tiến xa trong lĩnh vực công nghiệp văn hóa. “Làn sóng Hàn Quốc” – “Hàn lưu” không chỉ mang lại những giá trị kinh tế lớn mạnh mà còn góp phần quảng bá hiệu quả thương hiệu quốc gia trên thị trường quốc tế thông qua điện ảnh, âm nhạc, thời trang…
“Có lẽ không ngày nào trên các kênh truyền hình quốc gia và địa phương của Việt Nam không có các bộ phim Hàn Quốc”, Thủ tướng nói và cho rằng kinh nghiệm và thành công của Hàn Quốc sẽ là những bài học quý báu đối với ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam mới bước đầu phát triển và đạt được một số kết quả khích lệ.
Thủ tướng cho biết, đối với Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, Vị anh hùng dân tộc – Danh nhân văn hóa thế giới đã căn dặn: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phát biểu: “Văn hóa nói lên bản sắc của một dân tộc, văn hóa còn dân tộc còn, văn hóa mất thì dân tộc mất”.
Đất nước Việt Nam có hơn 4.000 năm lịch sử, có nhiều giá trị, bản sắc văn hóa riêng của dân tộc; đồng thời, tiếp thu và đóng góp tích cực vào nền văn hóa chung của nhân loại.
Việt Nam đang tập trung xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, là sức mạnh nội sinh quan trọng, bảo đảm sự phát triển bền vững, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, an sinh xã hội, “không để ai bị bỏ lại phía sau”. Văn hóa là nền tảng tinh thần, là nguồn lực nội sinh, động lực đột phá cho sự phát triển. Văn hóa có bản sắc dân tộc sâu sắc. Văn hóa phải được thụ hưởng, tạo động lực, truyền cảm hứng bởi mọi người dân.
Về định hướng phát triển công nghiệp văn hóa Việt Nam, Thủ tướng cho biết, để tạo ra các sản phẩm, dịch vụ công nghiệp văn hóa “Sáng tạo – Bản sắc – Độc đáo – Chuyên nghiệp – Lành mạnh – Cạnh tranh – Bền vững” trên nền tảng “Dân tộc – Khoa học – Đại chúng”, Việt Nam xác định phương châm “Tư duy sắc bén, hành động sắc sảo, lựa chọn tinh hoa để đột phá phát triển”, từng bước tạo dựng thương hiệu sản phẩm, dịch vụ mang tầm quốc gia, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Việt Nam đang xây dựng Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045 với tinh thần đẩy mạnh quốc tế hóa giá trị, bản sắc văn hóa dân tộc ra thế giới và dân tộc hóa tinh hoa văn hóa thế giới vào Việt Nam.
Việt Nam mong muốn đồng hành và nhận được sự hỗ trợ, hợp tác của Hàn Quốc trong quá trình xây dựng, triển khai các chiến lược, chính sách thúc đẩy phát triển mạnh mẽ, hiệu quả các ngành công nghiệp văn hóa trong thời gian tới.
Thủ tướng đề nghị phía Hàn Quốc hỗ trợ Việt Nam phát triển du lịch và công nghiệp văn hóa, nhất là trong hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách, xây dựng hạ tầng, đào tạo nhân lực, nâng cao năng lực quản trị, huy động nguồn lực, nguồn tài chính.
Nhắc tới câu nói “Muốn đi nhanh thì đi một mình. Muốn đi xa hãy đi cùng nhau”, Thủ tướng đánh giá cao và vui mừng nhận thấy cùng với hợp tác về du lịch, quan hệ hợp tác văn hóa giữa Việt Nam và Hàn Quốc không ngừng được vun đắp, phát triển mạnh mẽ. Diễn đàn là cơ hội quý báu, bổ ích để hai bên cùng chia sẻ, trao đổi, mở ra một thời kỳ mới, thành công và khởi sắc hơn nữa cho phát triển du lịch và hợp tác văn hóa Việt Nam – Hàn Quốc.
Nhân dịp này, Thủ tướng ghi nhận và cảm ơn những đóng góp quý báu của ông Lý Xương Căn trên cương vị Đại sứ Du lịch Việt Nam tại Hàn Quốc và mong muốn ông cùng các cộng sự tiếp tục đóng góp nhiều hơn nữa cho quan hệ hợp tác phát triển du lịch hai nước; đồng thời trân trọng ghi nhận đóng góp của các tập đoàn Hàn Quốc đã tích cực đầu tư vào lĩnh vực văn hoá, du lịch của Việt Nam.
Thủ tướng đề nghị Hàn Quốc hỗ trợ, tạo điều kiện cho việc thành lập Trung tâm Văn hóa Việt Nam tại Hàn Quốc; đề nghị các doanh nghiệp Hàn Quốc quan tâm tiếp tục đẩy mạnh đầu tư vào các lĩnh vực du lịch, công nghiệp văn hóa, giải trí tại Việt Nam.
Thủ tướng mong muốn và tin tưởng rằng, cơ quan du lịch quốc gia, chính quyền các địa phương, các hãng hàng không, công ty du lịch, lữ hành, các cơ sở lưu trú, khách sạn, các doanh nghiệp Việt Nam và Hàn Quốc sẽ cùng nhau đưa ra những chương trình hợp tác, dự án cụ thể, thiết thực để đưa hợp tác văn hóa và du lịch Việt Nam – Hàn Quốc lên một tầm cao mới, tạo ra giá trị, xứng tầm quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện.
Thủ tướng giao Bộ trưởng Bộ VHTTDL Việt Nam tiếp tục chủ trì các trao đổi, thảo luận và nghiêm túc tiếp thu các đề xuất, ý kiến góp ý tại diễn đàn này để hoàn thiện và sớm trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045, đồng thời đẩy mạnh triển khai Chiến lược Phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030, để hợp tác văn hóa và du lịch giữa hai nước thực sự tạo xung lực mới cho quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện, vì lợi ích chung của hai dân tộc, vì hòa bình, ổn định và thịnh vượng của khu vực và thế giới./.