Với một gia tài âm nhạc đồ sộ, cố nhạc sỹ Đỗ Nhuận đã để lại cho nền âm nhạc Việt Nam không chỉ một “Việt Nam quê hương tôi” mà hơn cả là một cái tên đủ làm rung động trái tim người yêu nhạc nhiều thế hệ.
Nhạc sỹ của quê hương
Nhạc sỹ Đỗ Nhuận sinh năm 1922 ở vùng đất của chèo cổ và lớn lên bằng những đêm chiếu chèo rộn rã. Ngay từ năm 14 tuổi ông đã học âm nhạc dân tộc và biết chơi Sáo Trúc, Tiêu, Đàn Nguyệt, Đàn Tứ, Đàn Bầu. Những năm đi học ở Hải Phòng, ông sinh hoạt trong Hướng đạo sinh, trong các buổi sinh hoạt thường hát những bài hát Pháp và châu Âu.
Tiếp đó không khí âm nhạc cải cách bắt đầu ảnh hưởng đến Đỗ Nhuận, ông học đàn Ghi ta, Bănggiô, Viôlông và ký âm pháp. Về ảnh hưởng và tiếp thu âm nhạc châu Âu và Pháp, riêng đối với các nhạc sĩ có tinh thần yêu nước, không thể không kể đến những ca khúc cách mạng của Pháp như Macxâye và Quốc tế ca.
Khác với phần đông các nhạc sĩ có khuynh hướng lãng mạn, Đỗ Nhuận giống Lưu Hữu Phước ở cảm hứng về quê hương đất nước. Năm 1939, ông viết ca khúc đầu tiên khi mới ở tuổi 17: Trưng Vương, nhằm ngày kỷ niệm Hai Bà Trưng ở Hải Dương.
Trong những năm 1940-1941, Đỗ Nhuận dồn sức hoàn thành ca cảnh Nguyễn Trãi – Phi Khanh (gồm 3 ca khúc Chim than, Lời cha già, Đường lên ải Bắc).
Chính những ca khúc này và một số hoạt động yêu nước trong thời gian ở Hải Phòng và một số nơi khác Đỗ Nhuận đã bị thực dân Pháp bắt đi đày ở Sơn La năm 1943.
Tuy nhiên, sự cầm tù ấy càng làm Đỗ Nhuận gắn bó với cách mạng hơn. Chỉ một năm trong tù một loạt ca khúc đã ra đời: Chiều tù, Côn Đảo, Hận Sơn La, Tiếng gọi tù nhân (lời Đào Duy Từ), Viếng mồ tử sĩ.
Ra tù, cảm hứng về rừng núi, về chiến khu và cách mạng đã giúp Đỗ Nhuận hoàn thành các ca khúc hừng hực khí thế tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng Tám: Du kích ca (1944), Nhớ chiến khu (1945).
Sau cách mạng tháng Tám, thực dân Pháp gây hấn ở Nam Kỳ, Đỗ Nhuận có ngay ca khúc Tiếng súng Nam bộ, Tiếng hát đầu quân và Đoàn lữ nhạc.
Trong kháng chiến chống Pháp, Đỗ Nhuận đã viết nhiều tác phẩm gây ấn tượng mạnh mẽ, thúc giục cả dân tộc vững bước trong cuộc kháng chiến trường kỳ.
Bên cạnh Áo mùa đông đằm thắm trữ tình là Ca ngợi Hồ Chủ tịch (1951) trang trọng; bên cạnh Sóng cả không ngã tay chèo chân chất mộc mạc là Du kích sông Thao (1949) cuồn cuộn hoành tráng.
Đặc biệt là bộ sử thi âm thanh về trận Điện Biên Phủ lịch sử: Hành quân xa (1953), Trên đồi Him Lam (1954), Chiến thắng Điện Biên (1954).
Học trò xuất sắc của âm nhạc thế giới
Đỗ Nhuận là nhạc sĩ duy nhất trong thế hệ đầu của tân nhạc được đào tạo bài bản tại Nhạc viện Tchaikovsky. Và ông cũng chính một trong những người đặt nền móng cho thể loại nhạc kịch theo truyền thống của opera phương Tây.
Những thể nghiệm đầu tiên của ông xuất hiện từ những năm 1950 là các ca kịch ngắn: Cả nhà thi đua, Sóng cả không ngã tay chèo, Anh Păn về bản, Hòn đá. Những năm 1970, 1980, Đỗ Nhuận viết các vở nhạc kịch: Chú Tễu, Ai đẹp hơn ai, Trước giờ cưới, Quả dưa đỏ…
Ông là nhạc sĩ Việt Nam đầu viết opera với vở Cô Sao (1965), rồi sau đó là Người tạc tượng (1971). Ngoài ra, ông còn có những tác phẩm khí nhạc như Vũ khúc Tây Nguyên cho violon và dàn nhạc…
Nhưng tên tuổi ông vẫn gắn bó với những ca khúc như Việt Nam quê hương tôi, Tôi thích thể thao (một bài hát vui, bắt đầu bằng toàn chữ T), Em là thợ quét vôi, Đường bốn mùa xuân…
Đặc biệt là ca khúc “Chiến thắng Điện Biên” được coi là hiện tượng độc nhất vô nhị trong làng nhạc Việt Nam, khi là ca khúc vừa có sức trường tồn, vừa được phổ rộng: chỉ sau khi ra đời vài tiếng, bài hát đã được biểu diễn tại lễ mừng chiến thắng Điện Biên và hơn nửa thế kỷ qua, bản nhạc này vẫn vang mãi âm hưởng hào hùng của một trận thắng lừng lẫy khắp địa cầu.
Tác phẩm của ông trong những năm 60, 70 Thế kỷ 20: Em là thợ quét vôi, Tôi thích thể thao, Việt Nam quê hương tôi, Đường bốn mùa xuân, Người chiến thắng là anh (viết cùng thầy Phêrê-V.Fére), Giặc đến nhà ta đánh, Vui mở đường, Trống hội tòng quân, Trai anh hùng gái đảm đang, Hát mừng các cụ dân quân, Trông cây lại nhớ đến người (cải biên hò ví dặm), Bài ca cách mạng tiến quân…
Âm nhạc của Đỗ Nhuận giàu bản sắc dân tộc, phong phú về chất liệu, ngôn ngữ biểu hiện giản dị, mộc mạc trữ tình, đằm thắm, hóm hỉnh. Nhạc sĩ đã được nhận nhiều huân chương cao quý, đặc biệt là Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 1996.
Ca khúc “Việt Nam quê hương tôi” được nhạc sĩ Đỗ Nhuận viết vào khoảng năm 1961
Đó là thời kỳ miền Bắc đang xây dựng CNXH và đấu tranh vì sự nghiệp thống nhất đất nước. Giai điệu bài hát tha thiết, uyển chuyển tựa như lời mời của triệu triệu người dân nước Việt; cũng là sự bày tỏ niềm lạc quan, tin tưởng vào một tươi lai tươi sáng, non sông thu về một mối…
Lời bài hát:
Bạn ơi hãy đến quê hương chúng tôi
Ngắm mặt biển xanh xa tít chân trời
Nghe sóng vỗ dạt dào biển cả
Vút phi lao gió thổi bên bờ
Buồm vươn cánh vượt sóng ra ngoài khơi
Trong nắng hồng bừng lên sáng ngời
Miền Nam đất nước quê hương chúng tôi
Có rừng dừa xanh xa tít chân trời
Người thiếu nữ dạt dào tình trẻ
Dáng xinh tươi đang tuổi yêu đời
Lòng trai tráng rộng lớn như biển khơi
Với cánh tay dựng lên đất trời
Mùa Xuân đã tới quê hương chúng tôi
Mía ngọt chè xanh bông trắng lưng đồi
Đồng xanh lúa rập rờn biển cả
Tiếng ai ru con ngủ ru hời
Đồng xanh lúa thẳng cánh bay cò bay
Đưa nước về làng quê xóm tôi
Việt Nam yêu dấu thanh thanh lũy tre
Suối đổ về sông qua những nương chè
Dòng sông cuốn dồn về biển cả
Lứa thanh niên vui thỏa cuộc đời
Mùa Xuân tới nguồn sống đang sục sôi
Đất nước tôi Việt Nam sáng ngời!