back to top
23 C
Hanoi
Tuesday, 3 December, 2024
Trang chủVăn học Nghệ thuậtTác phẩm“Bài ca không quên” và không thể nào quên

“Bài ca không quên” và không thể nào quên

“Bài ca không quên” là thông điệp bình dị và thiêng liêng mà nhạc sỹ Phạm Minh Tuấn đã gửi gắm, nhắc nhở những thế hệ con cháu cần phải biết nỗi đau của chiến tranh và phải biết trân quý nền hòa bình.

Trong bài hát , có một phần nỗi đau riêng của gia đình

Là một giáo viên Sử, tôi thấy mình thật may mắn khi có nhiều lần gặp gỡ, chuyện trò với Nhạc sỹ Phạm Minh Tuấn trong những sự kiện lớn về lịch sử mà ông tham gia với góc độ là chứng nhân của lịch sử.

Cuối năm 2019, trong 1 lần công tác tại Thành phố Hồ Chí Minh, tôi được nhạc sỹ mời đến nhà riêng của ông ở Thủ Đức.

Tôi và ông đã trò chuyện với nhau không chỉ là một giáo viên Sử với 1 nhạc sỹ, mà là sự kết nối, sẻ chia giữa 2 thế hệ từ một nhân duyên: người dạy sử với người chép sử bằng những nốt nhạc, lời ca.

Ở cái tuổi gần 80, nhạc sỹ Phạm Minh Tuấn – tác giả của bài hát “Bài ca không quên” vẫn luôn minh mẫn không nguôi nhớ về những khoảng khắc đau thương, những thời kỳ oanh liệt của hàng triệu người con đã chiến đấu và hy sinh cho Tổ quốc, trong đó có nỗi đau riêng của gia đình ông.

Khi nhắc đến hoàn cảnh ra đời của ca khúc “Bài ca không quên”, ông tâm sự : “Trong bài hát , có một phần nỗi đau riêng của gia đình tôi trong nỗi đau chung của đất nước, nỗi đau xé lòng khi tôi mất đi đứa con gái mới 6 tháng tuổi và nỗi đau âm thầm, dai dẳng của bà xã Hồng Cúc”.

Ông sẻ chia: “Năm 1964, con gái đầu của tôi chào đời. Cả hai vợ chồng cùng hoạt động bí mật trong rừng nên phải nuôi con trong điều kiện chiến tranh vô cùng vất vả, khó khăn.

Một hôm, tôi đang đi công tác ở Bến Tre, vợ tôi dẫn đoàn cán bộ 18 đồng chí đi qua đoạn có địch phục kích ở vùng giáp ranh Tây Ninh. Sợ con khóc sẽ bị lộ, địch có thể phát hiện ra đoàn của mình, vợ tôi đành chọn cách cho con bú và áp thật sâu con vào bầu ngực.

Nào ngờ, khi trận càn của địch đã đi qua thì vợ ông phát hiện con gái đã bị ngạt thở. Cháu đã ra đi đau thương như vậy. Còn gì đau hơn nữa khi mất con rồi lại phải để lại một mình tấm thân bé bỏng mới 6 tháng tuổi giữa rừng sâu trong đạn bom.

Trong thời điểm chiến tranh lúc đó, vợ chồng tôi không thể chôn cất cho con chu đáo được. Sau đó, rất nhiều lần trở lại chiến trường xưa nhưng tôi vẫn chưa tìm thấy phần mộ con gái mình nằm ở đâu. Tôi đã giấu nỗi đau này hơn nửa thế kỷ qua, mỗi khi có ai đến chơi và hỏi lại chuyện đó, tôi đều không dám để vợ trả lời”. Nhạc sỹ nghẹn ngào nói.

Sáng ngày 30.4.1975, nhạc sỹ Phạm Minh Tuấn, lúc đó đang cùng với những người bạn nghe tin qua Đài tiếng nói Việt Nam báo tin Sài Gòn giải phóng, họ đã ôm lấy nhau mà cười trong nước mắt. Ảnh tư liệu.

Viết cho tất cả sự hy sinh của những người con anh dũng vì Tổ quốc

Sẻ chia về hoàn cảnh lịch sử, lý do sáng tác “Bài ca không quên”, nhạc sỹ xúc động kể: “Những năm căng thẳng sau biến cố đó và trong suốt 15 năm sau, tôi còn phải chứng kiến nhiều sự hy sinh của đồng đội, đồng chí, đồng bào của mình.

“Bài ca không quên” tôi viết cho tất cả sự hy sinh của những người con anh dũng vì Tổ quốc. Rất nhiều hoàn cảnh đau thương trong chiến tranh mà chỉ nghe kể lại thôi, chúng ta phải soi mình trong đó, để hiểu có hòa bình hôm nay, chúng ta đã mất nhiều mồ hôi, nước mắt và tính mạng, nên “tôi không quên, không thể nào quên”. 

Thời “không quên” ấy không chỉ là những kỷ niệm đẹp mà còn là nhiều ký ức đau đớn vì mất mát bởi chiến tranh. Không một vạt rừng nào trong khu căn cứ còn nguyên vẹn bởi đạn bom, hố bom chồng chéo lên hố bom.

Rất nhiều lần mà người nhạc sỹ, chiến sỹ ấy không thể nhớ nổi phải tự tay mình đào huyệt giữa rừng già và còn rất nhiều đồng đội khác không còn thân xác sau những trận mưa bom. Vết thương lòng lớn nhất chẳng bao giờ lành là nỗi đau mất đứa con gái đầu lòng mới chỉ 6 tháng tuổi của ông trong một lần đoàn cán bộ rơi vào ổ phục kích của địch.

Biến đau thương thành hành động, nhạc sỹ Phạm Minh Tuấn gác lại nỗi đau gia đình, cùng Đoàn văn công Giải phóng phục vụ chiến đấu khắp các chiến khu Nam bộ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Ông đã “kiêm” đủ nhiều vai của đoàn từ sáng tác đến biểu diễn, từ nhạc công ghi ta đến cả diễn viên cải lương “bất đắc dĩ”.

Liên tiếp trong nhiều năm “không quên” đó là nhiều chuyến lưu diễn phục vụ các đơn vị quân đội, dân công, du kích và đồng bào vùng giải phóng. Những đêm hành quân vựợt qua nhiều đầm lầy, những khu rừng già, con sông, con suối giữa mưa giông, nắng cháy, đổ nhiều mồ hôi và xương máu nhưng thật ấm áp tình người, nghĩa đồng đội, tình quân dân.

Hiểu cuộc đời của ông, hiểu những tháng năm chiến đấu ác liệt trong bom đạn càng luận giải sâu sắc tại sao ông lại sáng tác bài hát đó thành công đến như vậy, xúc động đến như vậy.

Hiểu bối cảnh lịch sử ra đời của bài hát và những gì mà tác giả đã gửi gắm cảm xúc lòng mình trong bài hát để lý giải tại sao nhạc sỹ Phạm Minh Tuấn lại liên tục dùng nhiều điệp từ, điệp ngữ “không quên”, “không bao giờ quên” đến như vậy.

Tất cả đến từ những “lời mẹ ru con đêm đêm”, là “rừng lạnh sương đêm trăng suông”, “tháng ngày vất vả” ở những nơi  “ đất rừng xứ lạ”, “những mùa nước đổ”, để “gót mòn hành quân hối hả”, “em chống xuồng vượt qua pháo nổ”, tuy trong “bước đường hành quân đói lả” nhưng vẫn “gạo cầm hơi, một điếu thuốc cũng chia đôi”, là cảm xúc về  “những người đã ngã” của những người “ôm súng giữ biên cương”…

Người chép sử bằng âm nhạc

Sáng ngày 30.4.1975, nhạc sỹ Phạm Minh Tuấn lúc đó đang cùng với những người bạn từng ở chiến trường tụ tập trước Trường âm nhạc Việt Nam ngóng chờ giây phút lịch sử và khi nghe tin qua Đài tiếng nói Việt Nam báo tin Sài Gòn giải phóng, họ đã ôm lấy nhau mà cười trong nước mắt.

Tất cả sự kết nối, xâu chuỗi của lịch sử đất nước và sự trải nghiệm bằng chính cuộc đời của một nhạc sỹ sau khi miền Nam được giải phóng, đất nước được thống nhất, ông đã đau đáu nỗi niềm, đã trăn trở nhiều suy tư mang theo những “nỗi nhớ mênh mông” với “quê hương, với bạn bè, với cả cuộc đời”, để năm 1981, nhạc sỹ đã “gửi trọn đời cho tất cả” vào ca khúc bất tử “Bài ca không quên”.

Và “Bài ca không quên” cùng với rất nhiều ca khúc nổi tiếng khác như “Tiếng hát dân công” (1961), “Qua sông”(1963), “Bài ca người nữ tự vệ Sài Gòn” ( 1968)…và các ca khúc sáng tác sau năm 1975 như “Việt Nam người ơi” (1975), “Đường tàu mùa xuân” (1976) “ Thành phố tình yêu và nỗi nhớ” (1980), “Dấu chân phía trước” (1981), “Mùa xuân’ (1983), “Khát vọng”, “Đất nước”, “Sao biển” (1985)…đã tạo nên bộ sưu tập khổng lồ cho hành trang hơn 50 năm bền bỉ lao động và cống hiến cho nghệ thuật của một nhạc sỹ tài hoa.

Sẽ không quá lời khi nói, nhạc sỹ Phạm Minh Tuấn là người chép sử bằng âm nhạc gắn liền với nhiều ca khúc đi cùng năm tháng. Bài hát “Bài ca không quên” càng khó quên hơn khi gắn liền với một bộ phim cùng tên và cũng là tên những chương trình nghệ thuật “Bài ca không quên” của Truyền hình Quốc phòng đã dàn dựng rất thành công, tạo nên ấn tượng sâu sắc cho hàng triệu khán thính giả trong nhiều năm qua mỗi khi đến các ngày lễ kỷ niệm 30/4, 27/7, 22/12.

Theo tôi, thông điệp bình dị và thiêng liêng mà nhạc sỹ Phạm Minh Tuấn đã gửi gắm và muốn gửi gắm, nhắc nhở những thế hệ con cháu sinh ra và lớn lên trong thời bình là cần phải biết nỗi đau của chiến tranh và phải biết trân quý nền hòa bình, cái ý nghĩa của độc lập, thống nhất non sông, cái tình của đồng đội, đồng chí, đồng bào mỗi khi nhắc đến sự kiện ngày 30.4 hàng năm.

Thế hệ trẻ sinh ra khi đất nước đã im tiếng súng, được may mắn hưởng thụ “giây phút bình yên” đừng bao giờ quên tất cả những gì mà cha ông mình đã gian khổ chiến đấu cho quê hương, đã dũng cảm hy sinh cho đất nước, để tưởng nhớ và tri ơn, để đừng bao giờ quên những ký ức hào hùng, thiêng liêng ấy.

Trong lịch sử âm nhạc cách mạng Việt Nam, có những được- mất trong cuộc đời riêng hòa quyện với niềm vui, nỗi đau chung để làm nên những khúc hát ấm nồng tình người, tình đất nước.

Có những bài ca vừa sâu nặng một ký ức bi hùng, vừa bừng sáng niềm tin khát vọng không chỉ của thế hệ từng làm nên lịch sử, làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Với “Bài ca không quên”, nhạc sỹ Phạm Minh Tuấn đã hát lên với cả lòng mình, hát cho quê hương, cho đồng đội và cho những người thân yêu của ông.

Thầy giáo Trần Trung Hiếu – THPT Chuyên Phan Bội Châu – Nghệ An

BÀI CÙNG CHUYÊN MỤC
- Liên kết -
Đề án: Bảo tồn, phát huy giá trị tác phẩm văn học, nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam

Bài mới đăng

CHỦ ĐỀ ĐƯỢC QUAN TÂM